Nằm trên băng tìm cá chép là biểu tượng gắn liền với Vương Tường.
Vương Tường (chữ Hán: 王祥, 180 hoặc 184 – 268) là quan viên, tam công nhà Tào Ngụy thời Tam quốc, nhà Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông nhờ hiếu thảo mà nổi tiếng, là tấm gương Nằm trên băng tìm cá chép (ngọa băng cầu lý) trong Nhị thập tứ hiếu.
Xuất thân
Tường tự Hưu Trưng, người huyện Lâm Nghi, quận Lang Da , là hậu duệ của Gián nghị đại phu Vương Cát nhà Tây Hán, sử cũ có truyện. Ông nội là Vương Nhân, được làm đến Thanh Châu thứ sử. Cha là Vương Dung, không muốn làm quan.
Sự nghiệp
Cuối đời Hán loạn lạc, Tường đem mẹ kế và em khác mẹ là Vương Lãm lánh nạn ở Lư Giang, ẩn cư hơn 30 năm, lấy cớ phải phụng dưỡng mẹ già, không nhận lời làm quan ở châu quận. Mẹ kế mất, Tường đã gần 60 tuổi, được Từ Châu thứ sử Lữ Kiền mời làm Biệt giá, vẫn cố từ chối. Lãm khuyên anh, còn sắp sẵn bò xe, nên Tường nhận lời, được Kiền gởi gắm chánh sự của châu. Bấy giờ cướp bóc đầy dẫy, Tường khích lệ binh sĩ, lần lượt đánh dẹp. Cả châu được yên, chánh sách và giáo hóa được thi hành. Người đương thời ca ngợi: “Ven biển được yên, thật nhờ Vương Tường. Nước nhà chẳng rỗng, công của Biệt giá.”
Tường được Lữ Kiền cử làm tú tài, rồi được triều đình trừ làm Ôn huyện lệnh, dần được thăng đến Đại tư nông. Ngụy đế Tào Mao nối ngôi, Tường nhờ công sách lập, được phong Quan nội hầu, bái Quang lộc huân, chuyển làm Tư lệ hiệu úy. Tường theo quân đội đánh dẹp Vô Khâu Kiệm, được tăng ấp 400 hộ, thăng làm Thái thường, phong Vạn Tuế đình hầu. Tào Mao thăm Thái học, mệnh cho Tường làm Tam lão. Tường ngồi ghế chống gậy, quay mặt về phía nam, giữ thân phận của thầy. Tào Mao quay mặt về phía bắc để học tập, nghe thầy giảng dạy yếu lĩnh của việc chánh trị - giáo hóa của vua tôi thời đại các bậc minh vương, thánh đế; người nghe đều không cầm được nước mắt.
Đến khi Tào Mao bị giết (260), triều đình cử ai, Tường gào khóc rằng: “Lão thần không giúp được gì!” nước mắt chảy dài, khiến mọi người đều xấu hổ. Ít lâu sau, Tường được bái làm Tư không, rồi chuyển làm Thái úy, gia làm Thị trung. Quyền thần Tư Mã Chiêu tái lập Ngũ đẳng tước chế, Tường được phong Tuy Lăng hầu, thực ấp 1600 hộ.
Khi Tư Mã Viêm nối tước Tấn vương, Tường cùng Tuân Ỷ (con Tuân Úc) đi gặp. Ỷ khuyên Tường nên lạy Tấn vương, ông từ chối, lấy cớ rằng Viêm là tể tướng, mình là tam công, giai thứ ngang nhau, làm thế sẽ khiến uy vọng của cả triều đình bị tổn hại, đức hạnh của cá nhân Viêm chịu khiếm khuyết. Đến khi gặp, Ỷ bèn lạy, còn Tường chỉ vái dài, Viêm nói: “Hôm nay mới biết ông xem trọng tôi như vậy!”
Cùng năm, Tư Mã Viêm lên ngôi, là Tấn Vũ đế, cho Tường được bái Thái bảo, tiến tước làm công, được bổ nhiệm thêm 7 quan viên giúp việc trong phủ. Đế mới ở ngôi, dốc lòng cầu lời thẳng thắn. Tường cùng bọn Hà Tằng, Trịnh Xung là bậc lão thành, hiếm khi vào chầu, đế sai thị trung Nhâm Khải đến tận nhà hỏi ý kiến, nhất là các vấn đề chánh trị - giáo hóa. Tường lấy cớ già nua mỏi mệt, nhiều lần xin rời chức, đế không đồng ý. Ngự sử trung thừa Hầu Sử Quang cho rằng Tường bệnh đã lâu, bỏ tham dự triều hội, xin miễn quan của ông; đế giáng chiếu từ chối. Tường cố xin nghỉ, đế giáng chiếu cho ông được ở phủ đệ tương xứng với thân phận Tuy Lăng công, địa vị ngang với tam công, ở trên tam tư, bổng lộc và ân thưởng như trước. Tường được ở lại kinh đô, nhưng không cần vào chầu; được ban ghế và gậy, triều đình có việc lớn sẽ đến tận nhà để hỏi han; được ban xe 4 ngựa, 1 khu nhà, trăm vạn tiền, 500 xúc lụa, giường màn chiếu đệm; được quyền bổ nhiệm 6 viên Xá nhân và được sở hữu 20 kỵ binh; cho con trai trưởng là Vương Triệu làm Cấp sự trung, để anh ta được ở lại kinh đô, nhằm thuận tiện cho hoàng đế thăm hỏi tin tức của ông. Ngoài ra đế biết Tường tính thanh liêm, vốn không có nhà cửa ở kinh đô, cho phép ông ở nhờ quan phủ, đợi đến khi phủ đệ của Tuy Lăng công xây dựng xong.
Năm Thái Thủy thứ 4 (268), Tường bệnh nặng, di ngôn cho con cháu làm tang lễ đơn giản. Di ngôn của Tường được sử cũ chép lại, đời sau gọi là Huấn tử tôn di lệnh (训子孙遗令). Tường mất, hưởng thọ 85 tuổi. Triều đình giáng chiếu ban Đông viên bí khí, 1 bộ triều phục, 1 bộ áo, 30 vạn tiền, trăm xúc vải. Bấy giờ mẹ của đế là Văn Minh hoàng hậu Vương Nguyên Cơ mới mất vào tháng trước, đế bận rộn việc tang nên chậm giáng chiếu bày tỏ sự thương tiếc. Năm sau, Tường được đặt thụy là Nguyên.
: Vương Ẩn cho biết Tường hưởng thọ 89 tuổi.
Đánh giá
Tường mất, người đến viếng nếu không phải quan viên trong triều, cũng là thân nhân, bạn bè hoặc thuộc cấp cũ mà thôi, chẳng có người khách lạ nào tìm đến. Cháu họ (tộc tôn) Vương Nhung than rằng: “Thái bảo có thể nói là thanh (trong sạch) đạt (suốt lẽ) vậy.” lại khen: “Tường vào niên hiệu Chánh Thủy (thời Ngụy đế Tào Phương), không gia nhập trào lưu thanh đàm. Nhưng khi đàm luận, thì lý lẽ rõ ràng sâu xa, còn chẳng phải là đem đức hạnh bịt miệng người ta ru!”
Phòng Huyền Linh nhận xét: “Hiếu là căn bản của đức, Vương Tường vì thế hơn người."
Hồ Tam Tỉnh nhận xét: “Thời Chánh Thủy người giỏi thanh đàm là mấy kẻ Hà Bình Thúc (tức Hà Yến) vậy. Nhà Ngụy chuyển sang nhà Tấn, có ích gì cho đời! Vương Tường vì thế đáng chuộng, hiếu với mẹ kế và không lạy Tấn vương đấy, quân tử do vậy nói tín nhiệm người là trụ thạch mà kính phục người là lương đống vậy. Lý lẽ rõ ràng sâu xa, nói gì ru, đức gì ru?”
Gia đình
- Mẹ đẻ là Tiết thị, người quận Cao Bình. Mẹ kế là Chu thị, ngươi quận Lư Giang.
- Em trai khác mẹ là Vương Lãm, do Chu thị sanh ra.
- 5 con trai là Triệu, Hạ, Phức, Liệt, Phân. Triệu là con vợ lẽ, Hạ mất sớm, nên Phức được nối tước.
: Đầu thời Hàm Ninh (275), Tấn Vũ đế cho rằng nhà Tường rất bần kiệm, ban 300 xúc lụa, bái Phức làm Thượng Lạc thái thú. Phức mất, được đặt thụy là Hiếu.
:: Con Phức là Căn, được làm đến Tán kỵ lang.
: Triệu được làm đến Thủy Bình thái thú.
:: Con Triệu là Tuấn, được giữ chức Thái tử xá nhân, phong Vĩnh Thế hầu.
::: Con Tuấn là Hà, được làm đến Úc Lâm thái thú.
: Liệt, Phân nổi tiếng từ bé, được Tường yêu mến, mất cùng lúc. Sắp chết, Liệt muốn được chôn ở quê nhà, Phân muốn ở lại kinh đô. Tường rơi nước mắt nói: “Không quên cố hương, là nhân đấy; không vướng gốc gác, là đạt vậy. Cả nhân và đạt, hai con ta đều có.”
Tấm gương hiếu thảo
Tường rất hiếu thảo. Mẹ Tường mất sớm, mẹ kế Chu thị không hiền, nhiều lần nói gièm, khiến ông không được cha yêu mến. Kể cả bị sai đi quét dọn phân bò, Tường vẫn tỏ ra cung kính, cẩn thận. Cha mẹ có bệnh, Tường không cởi đai áo, tự tay nấu tất cả thuốc men. Mẹ kế từng muốn ăn cá tươi, gặp lúc trời lạnh đến đóng băng, Tường cởi áo, muốn tách băng (phẩu băng) để tìm cá, băng chợt tự nứt ra, có 2 con cá chép nhảy lên, ông liền đem về.
:Quách Cư Kính đời Nguyên kể rằng Tường cởi áo nằm trên băng (ngọa băng) để tìm cá.
Mẹ kế thèm món chả sẻ vàng, Tường còn chưa biết làm sao, thì vài mươi con sẻ vàng bay vào nhà, Tường đem nấu cho bà ta ăn. Người ở quê nhà kinh ngạc thán phục, cho rằng trời cảm ứng với sự hiếu thảo của Tường mà làm ra như vậy. Nhà có cây mận, mẹ kế lệnh cho Tường coi giữ. Mỗi khi mưa gió, Tường ôm cây mà khóc.
Tường ngủ trên giường riêng, có lần mẹ kế lẻn đến chém ông. Gặp lúc Tường đi tiểu tiện, nên không bị chém. Tường trở về, biết mẹ kế hối tiếc không thôi, bèn quỳ xuống xin chết. Mẹ kế vì thế cảm động, yêu ông như con mình.
Mẹ kế mất, Tường giữ tang đến tiều tụy, phải chống gậy mới đứng dậy được.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Sưởng** (chữ Hán: 王昶, ? – 259) tự **Văn Thư**, người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên, tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc. ## Thiếu thời Bác của Sưởng là Nhu,
Nằm trên băng tìm cá chép là biểu tượng gắn liền với Vương Tường. **Vương Tường** (chữ Hán: 王祥, 180 hoặc 184 – 268) là quan viên, tam công nhà Tào Ngụy thời Tam quốc,
**Vương Túc** (chữ Hán: 王肃, 195 – 256) tự **Tử Ung**, quan viên, học giả nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Túc là người huyện Đàm, quận
**Vương Trung** (; ? - 242), không rõ tên tự, là tướng lĩnh Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Trung quê ở quận Phù Phong, Tư Lệ,
**Vương Bí** (; ? – ?), là tướng lĩnh Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Bí quê ở huyện Vũ Uy, quận Vũ Uy, Lương Châu, khả
nhỏ|phải|Tranh vẽ Ngũ hổ tướng nhà Thục Hán **Ngũ hổ tướng** (五虎將) là chức danh hư cấu để gọi 5 vị tướng của Thục Hán là Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và
**Vương Phủ** (; ? – 222), tự **Quốc Sơn** (国山), là quan viên nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Phủ quê ở huyện Thê, quận Quảng
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
**Vương Hùng** (; ? – ?), tự **Nguyên Bá** (元伯), là quan viên Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Hùng quê ở huyện Lâm Nghi, quận Lang
**_Tam quốc chí_** (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: _Sanguo Chih_; bính âm: _Sānguó Zhì_), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
**Tam Quốc** (giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại,
Tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" về cơ bản dựa trên chính sử "Tam quốc chí" tiểu thuyết hóa. Các học giả đều thống nhất nhận định rằng "Tam quốc diễn nghĩa" sử dụng thủ
**Vương Lăng** (chữ Hán: 王淩; Phiên âm: Wang Ling; 171 - 251), tên tự là **Ngạn Vân** (彥雲), là đại thần nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ
**Vấn đề Kinh châu thời Tam Quốc** phản ánh những hoạt động quân sự, ngoại giao của những nước và thế lực quân phiệt liên quan tới địa bàn Kinh Châu thời Tam Quốc trong
**Giả Quỳ** (chữ Hán: 贾逵, 174 – 228) vốn có tên là **Giả Cù**, tên tự là **Lương Đạo**, người huyện Tương Lăng, quận Hà Đông, tướng lãnh cuối thời Đông Hán, quan viên, khai
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 張昭; [156|] - 236) là khai quốc công thần của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Chối từ tiến cử Trương Chiêu có tên tự
**Yên** (**燕 國**) là một vương quốc ở Trung Quốc tồn tại từ năm 237 đến tháng 9 năm 238 ở khu vực bán đảo Liêu Đông trong thời kỳ Tam Quốc. Nước này dựng
**Vương Quán** (chữ Hán: 王观) là quan nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Sự nghiệp Vương Quán có tên tự là **Vĩ Đài** (伟台), người huyện Lẫm Khâu thuộc
**Vương Tự** (), tự **Thừa Tông** (承宗), là quan viên, tướng lĩnh nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Tự quê ở huyện Tư Trung, quận Kiền
**Vương Tu** (chữ Hán: 王脩) là quan viên cuối đời Đông Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời Tu tự Thúc Trì, là người huyện Doanh Lăng, quận Bắc
**Đỗ Tập** (chữ Hán: 杜袭), tự **Tử Tự**, người huyện Định Lăng, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán, đầu đời Tào Ngụy thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Chu Hoàn** (chữ Hán: 朱桓, 176 - 238), tên tự là **Hưu Mục**, người huyện Ngô, quận Ngô , tướng lãnh nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời
**_Tam quốc chí: Rồng tái sinh_** (chữ Hán: 三國之見龍卸甲, tạm dịch: _Tam Quốc Chí: Rồng cởi giáp_, tựa tiếng Anh: **Three Kingdoms: Resurrection of the Dragon**) hay **Tam quốc chi kiến long tá giáp** là
thumb|right|320x320px|Ảnh bàn cờ Tam Quốc **Cờ Tam Quốc** là một biến thể 3 người chơi của cờ tướng. Trò chơi này tượng trưng cho cuộc chiến thời Tam Quốc từng chiến đấu để kiểm soát
**Tuân Úc** (chữ Hán: 荀彧, bính âm: _Xún Yù_; 163-216), biểu tự **Văn Nhược** (文若), là một mưu sĩ, chính trị gia và quan đại thần thời cuối Đông Hán, có công lớn giúp Tào
**Dương Phong** (chữ Hán:楊鋒, bính âm: Yang Feng) là một nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa của nhà văn La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này, Dương Phong
**Trần Lâm** (chữ Hán: 陈琳, ? – 217) là nhà văn cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, một trong Kiến An thất tử. ## Cuộc đời Lâm tự Khổng Chương, người huyện
**Trần Đăng** (chữ Hán: 陳登; 163 - 208), tên tự là **Nguyên Long** (元龍), là mưu sĩ thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Giúp Tào Tháo trừ Lã Bố Trần Đăng là
**Thẩm Oánh** (; ? - 280), là tướng lĩnh Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Không rõ quê quán, hành trạng ban đầu của Thẩm Oánh. Cuối thời
**Hồ Tế** (; ? - 256?), tự **Vĩ Độ** (偉度), là quan viên, tướng lĩnh nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Hồ Tế quê ở huyện Nghĩa
**Mạnh Khang** (chữ Hán: 孟康, ? – ?), tên tự là **Công Hưu**, người An Bình , là quan viên, học giả nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trước tác
**Liễu Nghị** (; ? - 205?) là quan viên, tướng lĩnh dưới quyền quân phiệt Liêu Đông thời Tam Quốc trong lịch sử Tam Quốc. ## Cuộc đời Liễu Nghị quê ở quận Liêu Đông,
**Tưởng Kinh Quốc** (; POJ: ChiúⁿKeng-kok; phương ngữ Thượng Hải/phương ngữ Ninh Bá: tɕiã.tɕiŋ.ko?) (27 tháng 4 năm 1910 - 13 tháng 1 năm 1988) là một nhà chính trị người Đài Loan. Ông đã
**_Dynasty Warriors: Chiến binh Tam Quốc_** (tên gốc ) là bộ phim kỳ ảo hành động phát hành năm 2021 do Hồng Kông và Trung Quốc hợp tác sản xuất, được ủy quyền chính thức
**Hòa Hiệp** (chữ Hán: 和洽, ? - ?), tự **Dương Sĩ**, người huyện Tây Bình, quận Nhữ Nam , quan viên nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc. ## Tị nạn Kinh Châu Hiệp được cử
**_Tam Quốc: Long Mệnh_** (tiếng Anh: _Three Kingdoms: Fate of the Dragon_) là trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian thực lịch sử dựa trên câu truyện lịch sử Tam quốc
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Võ Tam Tư** (chữ Hán: 武三思, bính âm: Wu Sansi, ? - 7 tháng 8 năm 707), gọi theo thụy hiệu là **Lương Tuyên vương** (梁宣王), là đại thần, ngoại thích dưới thời nhà Đường
**Vương Bình** (chữ Hán:王平; bính âm: Wang Ping; 183-248) là tướng lĩnh thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, lần lượt phục vụ 2 phe Tào Ngụy và Thục Hán. Từ khi phục vụ
**Trọng Tương vấn Hán** (仲襄問漢) là một tác phẩm văn học nói theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo kể từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến cuối đời
**Trần Thái** (chữ Hán: 陳泰; ?-260) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Trần Thái có tên tự là **Huyền Bá** (玄伯), là con đại thần
nhỏ|phải|Quách Nữ vương **Văn Đức Quách Hoàng hậu** (chữ Hán: 文德郭皇后; 8 tháng 4 năm 184 – 14 tháng 3 năm 235), không rõ tên, biểu tự là **Nữ Vương** (女王), tuy là kế thất
**Vương Song** (chữ Hán: 王雙, bính âm: Wang Shuang; mất 228) tự là **Tử Toàn** (子全), là một vị tướng lĩnh của nhà Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc của lịch sử Trung Quốc.
**Đại Vương** (chữ Hán: 大王) là thụy hiệu hoặc tôn hiệu của một số vị quân chủ, ngoài ra **Đại Vương** (代王) còn là tước hiệu của một số vị quân chủ. ## Thụy hiệu
**Vương Nguyên** (Giản thể: 王源, Phồn thể: 王源, Bính âm: _WángYuán_, tiếng Anh: Roy Wang, sinh ngày 8 tháng 11 năm 2000 tại Trùng Khánh, Trung Quốc) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, diễn
**Tần vương** (秦王) là một phong hiệu dành cho các quốc vương và chư hầu vương Trung Quốc cổ đại, đặt theo nước Tần – nhà Tần. ## Xuân Thu–Chiến Quốc Các quân chủ nước
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Hậu Tam Quốc Triều Tiên** (892–936) bao gồm Tân La, Hậu Bách Tế, Hậu Cao Câu Ly (về sau bị Cao Ly thay thế) và Tân La. Hai quốc gia sau tự tuyên bố là
**Tôn Tú** (chữ Hán: 孙秀, ? – 301 hoặc 302), tên tự là **Ngạn Tài**, người Phú Xuân, Ngô Quận , tông thất nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##