Trần Thái (chữ Hán: 陳泰; ?-260) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Thời trẻ
Trần Thái có tên tự là Huyền Bá (玄伯), là con đại thần Trần Quần – công thần khai quốc nhà Tào Ngụy.
Thời Ngụy Minh Đế Tào Duệ, ông làm Tán kỵ Thị lang.
Chống Thục
Sang thời Tào Phương, ông được đổi sang làm Kích tướng quân, thứ sử Tinh châu, thêm chức Chấn uy tướng quân, được cầm cờ tiết, lĩnh chức hộ Hung Nô Trung lang tướng. Khi tiếp xúc với người Hung Nô, Trần Thái dùng thái độ mềm dẻo đối xử với họ và rất có uy tín và tỏ ra liêm khiết.
Sau đó, Trần Thái được cử thay Quách Hoài làm Thứ sử Ung châu (Hoài được phong làm Chinh tây tướng quân), thêm chức Phấn uy tướng quân. Năm 247, Đại tướng quân nước Thục là Khương Duy xuất binh men lối Khúc Sơn đắp hai toà thành, sai Nha môn tướng là Câu An, Lý Hâm cố thủ ở đó, lại hẹn người Khương Hồ ước cùng vào đánh phá các quận quanh đó.
Chinh tây tướng quân Quách Hoài cùng với Trần Thái bàn kế chống giữ. Ông bàn với Quách Hoài:
:"Khúc thành tuy vững chắc, nhưng đường từ Thục đến đó xa xôi hiểm trở, việc vận lương tất chậm trễ. Quân rợ Khương sợ Duy khó khăn việc lao dịch, ắt chưa dễ giúp đỡ hết lòng. Nay ta cần vây hãm quân ấy, có thể không cần phải hết sức phá thành; dẫu họ có quân cứu viện, nhưng đường núi hiểm trở, đâu dễ hành binh như trên đất bằng được".
Quách Hoài theo kế của Trần Thái, sai ông lĩnh binh vây đánh quân Thục. Hộ quân Từ Chất, Thái thú Nam An là Đặng Ngải cùng tiến binh vây hãm Khúc thành, cắt đứt đường lấy nước. Bọn Câu An phải ra đánh, Đặng Ngải không ứng chiến, quân Thục khốn quẫn, bốc tuyết nấu ăn cho qua ngày tháng chờ cứu viện.
Khương Duy quả nhiên dẫn quân đến cứu giúp, tiến binh ra hướng núi Ngưu Đầu, cùng với Trần Thái đối trận. Trần Thái bàn với các tướng chủ trương chặn giữ ở núi Ngưu Đầu để Khương Duy không thể tiến lên, rồi lệnh cho các tướng cố sức giữ chắc thành luỹ không được giao chiến, lại phái sứ đến báo với Quách Hoài, muốn từ phía Nam vượt qua Bạch Thủy, men sông tiến về hướng Đông, đề nghị Quách Hoài đến thẳng núi Ngưu Đầu, cắt đứt đường về của quân Thục, có thể bắt được Khương Duy.
Quách Hoài khen kế ấy, dẫn ba quân đến Thao Thủy. Khương Duy lo lắng, phải bỏ chạy. Các tướng Thục là Cẩu An, Lý Hâm cô thế, bèn ra hàng.
Năm 255, Quách Hoài chết, Trần Thái được cử lên thay làm Chinh tây tướng quân, được ban giả tiết, kiêm quản mọi việc quân sự ở Ung châu và Lương châu.
Năm 256, Khương Duy lại dẫn quân Thục vào đánh Ngụy. Thứ sử Ung châu là Vương Kinh báo cáo với Trần Thái rằng, Khương Duy và Hạ Hầu Bá sắp chia quân làm ba đạo nhằm các hướng Kỳ Sơn, Thạch Doanh, Kim Thành, đề nghị ông xin tiến binh làm vây cánh và điều quân ở Lương châu tiến đến Bào Hãn đánh vào quân Thục để giảm áp lực cho quân ở Kỳ Sơn. Trần Thái liệu thế địch thấy không thể đương nổi cả ba đường, bèn nói với Vương Kinh nên cân nhắc kỹ phương án điều quân.
Bấy giờ Khương Duy dẫn mấy vạn quân tiến đến Bào Hãn, nhằm hướng Địch Đạo. Trần Thái lệnh cho Vương Kinh tiến lên đóng quân ở Địch Đạo, đợi quân các nơi đến đủ, sẽ tuỳ cơ đánh giữ; còn Trần Thái tiến quân đến Trần Thương. Vương Kinh lại thống lĩnh ba quân tiến đến Cố Quan cùng với quân Thục giao chiến, bị Khương Duy đánh bại. Vương Kinh vội chạy về Thao Thủy.
Trần Thái thấy Vương Kinh không chiếm đóng Địch Đạo, sợ có biến, bèn sai đóng năm dinh quân ngay trước trận, ông đốc ba quân đóng ở phía sau. Vương Kinh cùng Duy đại chiến ở Thao Thủy, bị thua lớn, mới dẫn hơn vạn quân lui về giữ thành Địch Đạo, binh sĩ còn lại đều thua chạy tan tác. Khương Duy thừa thắng vây hãm Địch Đạo. Trần Thái đóng quân ở Thượng Nhai, chia binh đóng giữ nơi hiểm yếu, sớm tối canh giữ nghiêm ngặt. Sau đó Đặng Ngải, Hồ Phấn, Vương Bí cũng đến nơi, Trần Thái liền cùng với Đặng Ngải, Vương Bí chia quân làm ba đạo, tiến đến Lũng Tây.
Bấy giờ lương trong thành Địch Đạo của Vương Kinh còn không đầy 10 ngày. Trần Thái chủ trương gấp rút tiến lên đánh quân Thục để bẻ gãy nhuệ khí thắng trận và ngăn chặn Khương Duy chiếm Địch Đạo, nếu để lâu ngày Địch Đạo mất, quân Thục sẽ thừa cơ chiếm vùng Quan Lũng; ông đề nghị nhân lúc quân Ngụy đóng ở trên cao chỉ cần dàn binh ở núi Hạng Lĩnh, thì không cần đánh quân Thục ắt phải bỏ chạy.
Rồi ông ngầm tiến quân đến núi Hạng Lĩnh, ngay trong đêm đến phía Đông Nam thành Địch Đạo đóng quân trên đỉnh núi, sai đốt lửa làm hiệu, ngày thì thúc trống. Tướng sĩ trong thành Địch Đạo thấy quân cứu viện đã đến, đều lấy làm phấn chấn. Khương Duy cho rằng cứu binh còn đang tụ tập bèn phát động tấn công, sĩ tốt nghe tin địch đến, ngờ rằng đóng quân lại ắt có biến, trên dưới đều kinh hoảng. Trần Thái bèn dẫn quân tiến binh đến Lũng Tây, nhân thấy đường núi hiểm trở, cho rằng địch tất đặt phục binh ở đó. Vì thế ông liền rẽ về con đường phía Nam, quả nhiên Khương Duy đặt quân mai phục binh ở đó đã 3 ngày.
Bởi việc hành quân được suôn xẻ, sĩ tốt tiến được xuống phía Nam như dự định. Khương Duy thấy thế liền vượt núi đuổi theo. Trần Thái cùng Khương Duy giao chiến, Khương Duy gặp bất lợi phải lui binh. Quân Ngụy ở Lương châu cũng vừa tới phía nam Kim Thành chiếm giữ nơi sườn núi. Trần Thái mật hẹn với Vương Kinh, cùng tiến binh ra đường lớn. Khương Duy được tin, bèn bỏ chạy, tướng sĩ trong thành Địch Đạo được giải vây.
Trần Thái uý lạo tướng sĩ, lại đổi quân khác trấn giữ thành trì, sửa sang chiến luỹ, rồi lui binh đóng giữ Thượng Nhai. Quyền thần Tư Mã Chiêu nghe tin rất ca ngợi ông.
Trung thần nhà Ngụy
Sau này Trần Thái được vời về làm Thượng thư hữu Phó xạ, thêm Thị trung Quang lộc đại phu. Đại tướng nước Ngô là Tôn Tuấn mang quân tấn công vùng Hoài Tứ. Nhà Ngụy lấy Trần Thái làm Trấn quân tướng quân, ban cho Giả tiết đô đốc mọi việc quân sự ở Hoài Bắc, cho phép ông được điều động toàn bộ quân lính ở Từ Châu. Tôn Tuấn lui binh, Trần Thái cũng rút quân kéo về, được chuyển làm tả Phó xạ.
Năm 257, Gia Cát Đản khởi binh chống Tư Mã Chiêu ở Thọ Xuân, Tư Mã Chiêu đốc xuất 6 lộ quân đóng ở Khâu Đầu, Trần Thái được xếp đứng đầu một lộ, sang năm 258 thì dẹp được Gia Cát Đản.
Năm 260, Trần Thái qua đời. Tam quốc chí không chép rõ về cái chết của ông. Theo các sách Tấn Kỷ và Ngụy thị Xuân thu, cái chết của ông gắn với sự kiện vua Ngụy Tào Mao bị giết.
Tào Mao phản đối sự chuyên quyền của Tư Mã Chiêu, mang quân cận vệ đánh vào phủ Tư Mã Chiêu, nhưng bị thuộc hạ của Chiêu là Giả Sung sai Thành Tốt đâm chết. Trần Thái cùng Thái phó Tư Mã Phu vào cung, gối đầu vào đùi thi thể của Tào Mao, khóc lóc rất bi thương. Các con em bên nội, ngoại của Trần Thái đều bị bắt buộc phải vào triều. Sau đó Tư Mã Chiêu cũng đến khóc trước thi thể Tào Mao rồi hỏi Trần Thái nên xử lý ra sao việc vua Ngụy bị giết. Trần Thái đề nghị Tư Mã Chiêu phải giết Giả Sung để tạ lỗi với thiên hạ. Nhưng vì Giả Sung là thủ hạ đắc lực của họ Tư Mã nên Tư Mã Chiêu không nghe theo ông, chỉ tuyên bố giáng chức của Giả Sung xuống một bậc và đề nghị ông nghĩ cách đẩy trách nhiệm sang cho một người khác. Trần Thái không đồng tình, nhất định đòi trị tội Giả Sung, nhưng Tư Mã Chiêu không nghe theo, chỉ giáng chức Giả Sung và bắt Thành Tốt là người trực tiếp ra tay với Tào Mao ra xử tử. Trần Thái phẫn uất thổ huyết mà qua đời.
Không rõ khi đó Trần Thái bao nhiêu tuổi. Ông được truy tặng chức Tư không, thuỵ hiệu là Mục hầu.
Chức danh và chức vụ từng nắm giữ
- Tán Kỵ Đãi Lang (散騎待郎)
- Dĩnh Âm Hầu (潁陰侯) - thừa kế từ người cha Trần Quần
- Du Kích Tướng Quân (游擊將軍)
- Bình Châu Thứ Sử (并州刺史)
- Chấn Uy Tướng Quân (振威將軍)
- Thừa Tướng Đông Tây Tào Duyện (丞相東西曹掾)
- Hộ Hung Nô Trung Lang Tướng (護匈奴中郎將)
- Thượng thư (尚書)
- Ung Châu Thứ Sử (雍州刺史)
- Phấn Uy Tướng Quân (奮威將軍)
- Chinh Tây Tướng Quân (征西將軍)
- Thượng thư Hữu Bộc Xạ (尚書右僕射)
- Thị Trung Quang Lộc Đại Phu (侍中光祿大夫)
- Trấn Quân Tướng Quân
- Tả Bộc Xạ (左僕射)
Trần Thái được truy phong 2 chức danh sau khi ông mất:
- Tư Không (司空)
- Mục Hầu (穆侯)
Trong Tam Quốc diễn nghĩa
Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Trần Thái được mô tả gần sát với sử sách. Ông chiến đấu bên cạnh Quách Hoài và Đặng Ngải trong việc bảo vệ lãnh thổ phía tây của Tào Ngụy trước những cuộc tấn công của Khương Duy từ Thục Hán. Vai trò của Trần Thái không được mô tả nổi bật như Đặng Ngải. Trần Thái xuất hiện trong sự kiện cuối cùng là việc khóc Tào Mao và đòi trị tội Giả Sung.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Thái** (chữ Hán: 陳泰; ?-260) là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Trần Thái có tên tự là **Huyền Bá** (玄伯), là con đại thần
**Trần Đăng** (chữ Hán: 陳登; 163 - 208), tên tự là **Nguyên Long** (元龍), là mưu sĩ thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Giúp Tào Tháo trừ Lã Bố Trần Đăng là
**Trần Lâm** (chữ Hán: 陈琳, ? – 217) là nhà văn cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, một trong Kiến An thất tử. ## Cuộc đời Lâm tự Khổng Chương, người huyện
**_Tam quốc diễn nghĩa_** (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: _sān guó yǎn yì_), nguyên tên là **_Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa_**, là một cuốn tiểu thuyết dã sử về lịch sử
**_Tam quốc chí_** (giản thể: 三国志; phồn thể: 三國志; Wade-Giles: _Sanguo Chih_; bính âm: _Sānguó Zhì_), là một sử liệu chính thức và có căn cứ về thời đại Tam Quốc của Trung Quốc từ
**Mạnh Khang** (chữ Hán: 孟康, ? – ?), tên tự là **Công Hưu**, người An Bình , là quan viên, học giả nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trước tác
**Châu Thái** (chữ Hán: 州泰; ? – 261), người quận Nam Dương, tướng lĩnh nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời và sự nghiệp Châu Thái ở châu
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Tam Quốc** (giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại,
Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa **Thời Tam Quốc** là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc với nhiều nhân vật trong lịch sử, nó cũng là thời đại tạo nguồn cảm hứng cho
Tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" về cơ bản dựa trên chính sử "Tam quốc chí" tiểu thuyết hóa. Các học giả đều thống nhất nhận định rằng "Tam quốc diễn nghĩa" sử dụng thủ
**Vấn đề Kinh châu thời Tam Quốc** phản ánh những hoạt động quân sự, ngoại giao của những nước và thế lực quân phiệt liên quan tới địa bàn Kinh Châu thời Tam Quốc trong
**_Tam quốc diễn nghĩa_** () là một bộ phim truyền hình sử thi cổ trang của Trung Quốc được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên (một trong tứ đại danh tác của Trung Quốc)
**Tuân Úc** (chữ Hán: 荀彧, bính âm: _Xún Yù_; 163-216), biểu tự **Văn Nhược** (文若), là một mưu sĩ, chính trị gia và quan đại thần thời cuối Đông Hán, có công lớn giúp Tào
**Lưu Kỳ** (chữ Hán: 劉琦; 173-210) là Thứ sử Kinh châu đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông xuất hiện trên chính trường Trung Quốc đương thời dù không có vai trò
**Chu Hoàn** (chữ Hán: 朱桓, 176 - 238), tên tự là **Hưu Mục**, người huyện Ngô, quận Ngô , tướng lãnh nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời
**Lưu Phong** (chữ Hán: 劉封; 190-220) là tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con nuôi Lưu Bị - Hoàng đế sáng lập nước Thục Hán. ## Theo
**Vương Sưởng** (chữ Hán: 王昶, ? – 259) tự **Văn Thư**, người Tấn Dương, Thái Nguyên , quan viên, tướng lãnh nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc. ## Thiếu thời Bác của Sưởng là Nhu,
**_Tam quốc chí: Rồng tái sinh_** (chữ Hán: 三國之見龍卸甲, tạm dịch: _Tam Quốc Chí: Rồng cởi giáp_, tựa tiếng Anh: **Three Kingdoms: Resurrection of the Dragon**) hay **Tam quốc chi kiến long tá giáp** là
**Tân Tam Quốc** (tiếng Trung: 三国, tiếng Anh: Three Kingdoms) là một bộ phim truyền hình Trung Quốc do Đài truyền hình Trung ương Trung Quốc sản xuất và phát hành vào năm 2010 dựa
**Đỗ Tập** (chữ Hán: 杜袭), tự **Tử Tự**, người huyện Định Lăng, quận Dĩnh Xuyên , quan viên cuối đời Đông Hán, đầu đời Tào Ngụy thời Tam quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Vương Bí** (; ? – ?), là tướng lĩnh Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Bí quê ở huyện Vũ Uy, quận Vũ Uy, Lương Châu, khả
**_Tam quốc chí_** là một bộ phim hoạt hình 2009 được phối hợp sản xuất giữa Beijing Huihuang Animation Company ở Trung Quốc và Future Planet ở Nhật Bản. Phim dựa trên tác phẩm Tam
**Lý Thông** (chữ Hán: 李通, 168 - 209), tên tự là **Văn Đạt**, tên lúc nhỏ là **Vạn Ức**, người huyện Bình Xuân, quận Giang Hạ thuộc Kinh châu, là tướng lĩnh tập đoàn quân
**Giả Quỳ** (chữ Hán: 贾逵, 174 – 228) vốn có tên là **Giả Cù**, tên tự là **Lương Đạo**, người huyện Tương Lăng, quận Hà Đông, tướng lãnh cuối thời Đông Hán, quan viên, khai
**Tôn Du** (; 177 – 215), tự **Trọng Dị** (仲異), là tướng lĩnh dưới quyền quân phiệt Tôn Quyền thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Tôn Du quê ở huyện
**Trương Chiêu** (chữ Hán: 張昭; [156|] - 236) là khai quốc công thần của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Chối từ tiến cử Trương Chiêu có tên tự
**Nguyễn Vũ** (chữ Hán: 阮瑀, ? – 212), tự **Nguyên Du**, người huyện Úy Thị, quận Trần Lưu , là nhà văn cuối đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, một trong Kiến An
**Chu Dị** (chữ Hán: 朱异, ? – 257), tên tự là **Quý Văn**, người huyện Ngô, quận Ngô, là tướng lĩnh nhà Đông Ngô đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời
thumb|right|Bìa quyển "Chí Trị tân san toàn tướng Bình thoại Tam quốc chí" (thế kỷ 14)|page=2 **Tam quốc chí bình thoại** (giản thể: 三国志平话 hoặc 三国志评话), là một tập hợp các truyện kể dân gian
**Lý Khôi** (chữ Hán: 李恢, ? – 231), tên tự là **Đức Ngang**, người huyện Du Nguyên, quận Kiến Ninh , quan viên, tướng lĩnh nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung
**Tô Lâm** (chữ Hán: 蘇林) là nhà văn, nhà huấn cổ cuối đời Đông Hán, đầu đời Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử Lâm tự Hiếu Hữu, người
**Tào Vũ** (chữ Hán: 曹宇, ? – 278), tên tự là **Bành Tổ**, người huyện Tiếu, nước (quận) Bái, là hoàng thân nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân
**Lưu Ung** (; ? – ?), tự **Nam Hòa** (南和), là quan viên, tướng lĩnh nhà Quý Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Lưu Ung quê ở quận Nam
**Vũ Chu** (; ? - ?), tự **Bá Nam** (伯南), là quan viên Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vũ Chu quê ở huyện Trúc Ấp, nước Bái,
Lễ hội đền Trần Lễ hội đền Trần **Đền Trần Thái Bình** là một quần thể di tích gồm các đền thờ, lăng mộ thờ các vị vua quan nhà Trần. Đền thờ các vua
**Trận Ký Thành** (chữ Hán: 冀城之戰) hay là **cuộc chiến tại Lũng Thượng** là trận chiến diễn ra vào năm 213 ở thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Chiến dịch do Mã Siêu
**Tôn Tú** (chữ Hán: 孙秀, ? – 301 hoặc 302), tên tự là **Ngạn Tài**, người Phú Xuân, Ngô Quận , tông thất nhà Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Lý Mật** (; 224 - 287), tên khác **Lý Kiền** (李虔), tự **Lệnh Bá** (令伯), là quan viên Quý Hán và Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Phụng sự Quý Hán Lý Mật
**Trận Thái Châu** (蔡州之战, Thái Châu chi chiến) là cuộc tấn công của liên quân Mông Cổ – Nam Tống nhằm vào Thái Châu , cứ điểm cuối cùng của nhà Kim, diễn ra từ
**Vương Hùng** (; ? – ?), tự **Nguyên Bá** (元伯), là quan viên Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Vương Hùng quê ở huyện Lâm Nghi, quận Lang
**Trận Đồng Quan** hay **Chiến dịch Đồng Quan** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận đánh chiến lược diễn ra giữa quân đội triều đình trung ương nhà Đông Hán do thừa tướng
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Thái Lan**, gọi ngắn là **Thái**, quốc hiệu là **Vương quốc Thái Lan**, là một quốc gia ở Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam
**Trần Nhân Tông** (chữ Hán: 陳仁宗, 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308), tên khai sinh là **Trần Khâm** (陳昑), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Trần nước Đại
Hình ảnh tái hiện một buổi trình diễn nhạc cụ truyền thống cổ của Trung Quốc (nhã nhạc cung đình [[nhà Thanh)]] nhỏ|Nhóm nghệ sĩ [[người Nạp Tây hòa tấu nhạc cụ cổ truyền]] **Những
**Trần Anh Tông** (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là **Trần Thuyên** (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại
**Trận Tương Dương – Phàn Thành** là trận chiến thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc giữa phe Lưu Bị (người sáng lập nước Thục Hán) và Tào Tháo (người sáng lập nước Tào
**Trần Thánh Tông** (chữ Hán: 陳聖宗 12 tháng 10 năm 1240 – 3 tháng 7 năm 1290), tên húy **Trần Hoảng** (陳晃) là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần nước Đại Việt, trị
**Trận Xích Bích** () là một trận đánh lớn cuối cùng thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục diện thời Tam Quốc. Trận đánh diễn ra vào mùa đông năm Kiến An