✨Tuân Úc (Tam Quốc)
Tuân Úc (chữ Hán: 荀彧, bính âm: Xún Yù; 163-216), biểu tự Văn Nhược (文若), là một mưu sĩ, chính trị gia và quan đại thần thời cuối Đông Hán, có công lớn giúp Tào Tháo gây dựng sự nghiệp thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Xét về quân sự thì Tuân Úc không có đóng góp quan trọng nào cho Tào Tháo, còn nếu xét riêng về nội trị (văn thư, pháp luật, tiến cử nhân sự) thì Tuân Úc thường được xem là một trong những mưu sĩ giỏi nhất của Tào Tháo, được Tào Tháo gọi là "Ngộ chi Tử Phòng" (吾之子房) (tức Trương Lương, một trong Hán sơ Tam kiệt).
Đương thời ông giữ chức Thượng thư lệnh, nên người đời hay kính gọi là Tuân Lệnh quân (荀令君). Cháu họ của Tuân Úc là Tuân Du cũng làm quan ở Tào Ngụy. Theo Ngụy thư thì tuy là chú nhưng Úc kém Du 6 tuổi. Tuân Du thường được gọi là Tuân Quân sư (荀軍師) để phân biệt với Tuân Úc.
Thân thế
Tuân Úc người huyện Dĩnh Âm quận Dĩnh Xuyên. Ông nội Tuân Úc là Tuân Thục (荀淑) làm tới chức huyện lệnh, cha là Tuân Côn (荀绲) cùng 7 anh em đều là tài tử, được gọi là Bát long (tám con rồng). Tuân Côn từng làm tướng quốc nước Tế Nam, em Tuân Côn là Tuân Sảng (chú của Tuân Úc) làm tới chức Tư không trong triều Hán Hiến Đế.
Tuân Úc được sử sách miêu tả là một người có dáng cao ráo, đẹp trai và có phong thái của một người quân tử.
Tuân Úc tuổi trẻ có tài, được tiến cử làm Hiếu liêm rồi được triều đình thu dụng làm quan tại Lạc Dương. Năm 189, Đổng Trác làm loạn, mang quân vào khống chế triều đình, phong Tuân Úc làm huyện lệnh huyện Khanh Phụ (gần Tế Ninh, Sơn Đông hiện nay). Được ít lâu, Tuân Úc bỏ chức vụ về quê ở Dĩnh Âm. Ông khuyên mọi người ở quê nên mau chóng thu xếp lên đường, không nên lưu luyến đất Dĩnh Xuyên bốn bề là chiến trường.
Phò trợ Tào Tháo
Tuân Úc cùng em trai là Tuân Kham, và người cùng quê là Tân Bình, Quách Đồ tìm đến Thứ sử Ký châu là Viên Thiệu và được thu dụng. Được một thời gian Tuân Úc nhận thấy Viên Thiệu không thể làm nên việc lớn, bèn bỏ Viên Thiệu tìm đến Đông quận (thuộc Duyện châu) theo Tào Tháo. Đó là năm 191.
Vạch định cương lĩnh chính trị
Tuân Úc lập tức được Tào Tháo trọng dụng, coi ông như Tử Phòng giúp Hán Cao Tổ dựng nghiệp trước kia và dùng vào việc lớn. Ông là người khuyên Tào Tháo đón Hán Hiến đế về Hứa Xương, là căn bản tạo nên sự thành công sau này của tập đoàn họ Tào.
Tuân Úc đề xuất ba cương lĩnh lớn với Tào Tháo, gọi là "đại thuận, đại lược, đại đức":
- Tôn thờ thiên tử thuận theo ý dân (thờ chúa thượng để dân nhìn vào)
- Chí công vô tư, hàng phục cường hào (lấy chí công, phục hùng kiệt)
- Lấy chính nghĩa chiêu mộ anh hùng (nhờ trượng nghĩa, có anh tài).
Ông được Tào Tháo giao cho chuyên lo sự vụ hành chính, đặc biệt khi Tào Tháo mang quân đi chinh chiến thì Tuân Úc lãnh trách nhiệm quản lý hậu phương.
Từ khi gia nhập Tào Tháo, Việc thành lập nên lực lượng quân sự và chính quyền của Tào Tháo đều là công lớn của Tuân Úc. Ông có công trong việc tiến cử những nhân tài thời đó như Tuân Du (cháu trai ông), Trần Quần, Quách Gia, Chung Do và Tư Mã Ý, tạo nên một dàn quân sư xuất sắc. Mỗi khi Tào Tháo giao tranh hay tham gia sự kiện, Tuân Úc thường đưa cho ông lời khuyên kịp thời ứng biến. Do đó, Tào Tháo rất tôn trọng ông và luôn đề ra ý kiến của Tuân Úc là một trong những sự lựa chọn ưu tiên trên hết.
Phòng thủ Yên Thành
Tào Tháo mở rộng thế lực ra khỏi Đông quận, làm chủ cả Duyện châu, lĩnh chức Châu mục. Năm 193, Tào Tháo quy trách nhiệm cho Châu mục Từ châu là Đào Khiêm về cái chết của cha mình (Tào Tung), bèn mang quân đánh Từ châu. Tuân Úc được giao giữ thành.
Chiến sự kéo dài sang năm 194, Tào Tháo chưa đánh chiếm được Từ châu thì Thái thú Đông quận là Trương Mạo và Trần Cung lại phản Tào Tháo, tôn Lã Bố làm Duyện châu mục và đánh chiếm đất đai của Tào Tháo. Lúc đó hậu phương Tào Tháo rất nguy cấp. Tuân Úc cùng các tướng cố sức phòng thủ, ông bàn với Trình Dục, rồi chia nhau đi phòng thủ: Trình Dục cùng Cức Đê giữ Đông A, Cận Long giữ Phạm Huyện, còn Tuân Úc điều động Hạ Hầu Đôn mang quân về giữ Yên Thành, ngay trong đêm giết chết vài chục người làm loạn, tạm ổn định tình hình.
Đúng lúc đó Thứ sử Dự châu là Quách Cống mang quân tới dưới thành đòi gặp Tuân Úc. Hạ Hầu Đôn can ông không nên ra gặp Quách Cống sẽ nguy hiểm tính mạng, nhưng ông cho rằng: :Quách Cống chưa từng liên kết với Trương Mạo, vì vậy có thể gặp mặt để tranh thủ lôi kéo. Dù ta không thể khuyên giải, cũng có thể khiến ông ta trung lập không giúp cho Trương Mạo. Nếu chúng ta không gặp, sẽ khiến ông ta cho rằng chúng ta không tin tưởng, từ đó ông ta sẽ xấu hổ mang lòng thù hận
Rồi ông tự mình ra gặp Quách Cống. Quách Cống thấy Tuân Úc có vẻ cứng cỏi không run sợ, lại thấy Yên Thành kiên cố không dễ phá, nên cho lui quân. Nhờ vậy Yên Thành được an toàn.
Ba huyện Yên Thành, Đông A và Phạm Huyện được giữ vững. Lã Bố tấn công nhưng chưa thể hạ được. Tuân Úc sai người cáo cấp cho Tào Tháo.
Nhờ có sự phòng thủ của Tuân Úc, Tào Tháo chưa bị mất căn cứ, kịp mang quân trở về đánh Lã Bố. Chiến sự kéo dài sang năm 195 thì Tào Tháo đánh đuổi được Lã Bố chạy khỏi Duyện châu.
Trấn giữ Hứa Xương
Triều đình Trường An rối loạn, hai quyền thần Lý Thôi và Quách Dĩ (thủ hạ cũ của Đổng Trác) trở mặt đánh nhau. Hán Hiến Đế đi thoát khỏi Trường An sang phía đông, trở lại Lạc Dương. Tuân Úc và Trình Dục khuyên Tào Tháo nên nghênh đón thiên tử để giúp nhà Hán, hiệu triệu thiên hạ, như vậy sẽ có chính nghĩa để đánh dẹp chư hầu. Ông đặc biệt đề cao chữ "nghĩa" để thu phục lòng người trong thời loạn lạc. Tào Tháo nghe theo kế, bèn mang quân đón rước Hán Hiến Đế, sau đó vì Lạc Dương đã đổ nát nên đưa vua về Hứa Xương.
Tào Tháo đặt triều đình Hán Hiến Đế tại Hứa Xương, tự phong mình làm Tư không, còn Tuân Úc làm thượng thư lệnh cai quản việc hành chính trong triều đình.
Tào Tháo phải mang quân đi chinh chiến với các chư hầu Trương Tú, Lã Bố, Lưu Bị, Viên Thuật, Viên Thiệu cùng các võ tướng và các mưu sĩ như Quách Gia, Trình Dục. Tuân Úc luôn là người ở lại trấn thủ Hứa Xương, thu xếp việc hậu phương. Khi tình hình mặt trận căng thẳng không thể quyết định được, Tào Tháo lại viết thư hỏi ông, và Tuân Úc luôn có quyết sách bày cho Tào Tháo giải quyết.
Thế lực của Viên Thiệu ở Hà Bắc rất lớn, trở thành địch thủ lớn nhất của Tào Tháo. Nhưng Tuân Úc đã phân tích với Tào Tháo, vạch rõ 10 nhược điểm của Viên Thiệu và 10 ưu điểm của Tào Tháo; từ đó ông khẳng định Tào Tháo sẽ thắng Viên Thiệu trong cuộc đối đầu giữa hai bên.
Năm 200, chiến sự ở Quan Độ giữa Viên Thiệu và Tào Tháo diễn ra ác liệt. Hai bên cầm cự lâu ngày không phân thắng bại, mà quân Tào ở thế yếu hơn. Tào Tháo sắp hết lương, muốn rút lui về Hứa Xương, bèn viết thư về hỏi ý kiến Tuân Úc. Tuân Úc viết thư trả lời như sau: :"Quân hai bên giữ nhau lâu ngày, đều đã mệt mỏi. Nay là lúc cần dùng mưu kế, ngàn vạn lần không nên nghĩ tới chuyện rút lui, một khi rút lui thì không thể nào giữ được nữa. Binh lực của Viên Thiệu tuy mạnh, nhưng hiện tại ông ta bị ngài giữ chân ở Quan Độ, nếu ngài buông tha ông ta thì hậu quả thế nào thực không dám nghĩ tới. Ngày xưa Hán Cao Tổ và Hạng Vũ giữ nhau ở Hồng Câu, hai bên đều muốn mà không dám rút lui chính vì lẽ đó".
Tào Tháo tiếp thu ý kiến của Tuân Úc, cố sức phòng thủ chờ biến cố. Quả nhiên sau đó mưu sĩ của Viên Thiệu là Hứa Du sang đầu hàng và hiến kế cho Tào Tháo cướp lương của Viên Thiệu ở Ô Sào, khiến đại quân Viên Thiệu tan vỡ.
Trận thắng Quan Độ giúp thay đổi cục diện tranh hùng, họ Viên từ đó suy yếu. Tào Tháo từng bước tiến lên phía bắc chinh phục họ Viên, cuối cùng năm 207 tiêu diệt hoàn toàn các con của Viên Thiệu. Trong thời gian đó Tuân Úc giữ vững Hứa Xương không xảy ra biến cố.
Không những thế, Tuân Úc còn tiến cử nhiều nhân tài phục vụ cho Tào Tháo như Trần Quần, Tư Mã Ý, Chung Do. Ông làm việc nghiêm túc, được đánh giá là người có đức hạnh đầy đủ, chăm lo chính đạo, không chú ý vẻ bên ngoài, khiêm nhường tôn trọng kẻ sĩ.
Mâu thuẫn với Tào Tháo
Nhờ có công lao, Tuân Úc được Tào Tháo phong làm Vạn Tuế đình hầu. Trong lịch sử từ trước đó, chưa từng có ai như Tuân Úc, người không có công lao chiến trận, chỉ làm Thượng thư lệnh mà được phong tước hầu.
Thế lực của Tào Tháo trong triều ngày càng cao. Vua Hán Hiến Đế hoàn toàn không có quyền hành.
Năm 204, Tào Tháo đánh chiếm được Nghiệp Thành (thủ phủ Ký châu) từ tay họ Viên, làm chủ phần lớn Hà Bắc và trung nguyên, đẩy họ Viên chạy lên phía bắc. Có người vì cơ nghiệp riêng của Tào Tháo đã kiến nghị nên thay đổi địa giới hành chính phục hồi chế độ 9 châu như trước đây, theo đó hai châu Tinh và U cùng 2 quận thuộc châu Tư (hay Tư Lệ Bộ) là Bằng Dực và Phù Phong sẽ sáp nhập vào Ký châu, như vậy cương vực riêng của Tào Tháo ở Ký châu sẽ rất lớn.
Điều này không chỉ quan hệ tới cơ nghiệp riêng của Tào Tháo mà còn liên quan tới vấn đề chính trị của nhà Hán. Đương thời, hai kinh Lạc Dương và Trường An cũ của nhà Tây Hán và Đông Hán đều thuộc Tư châu (hay Tư Lệ Bộ), trong đó Trường An thuộc quận Kinh Triệu và Lạc Dương thuộc quận Hà Nam. Nếu xóa bỏ và chia cắt Tư Lệ Bộ, gộp vào Ký châu sẽ là bước xóa sổ châu số một của nhà Hán mà tăng đất đai cho quyền thần.
Khi mang việc này ra bàn, Tuân Úc phản đối. Ông cho rằng: :Người quân tử lấy đức yêu người, không nên như vậy. Tào công vốn là vì việc giúp triều yên nước mà chiêu tập nghĩa binh, từ trước đến nay giữ lòng trung trinh, giữ bề khiêm tốn. Chúng ta không nên làm trái bản ý của Tào công.
Theo ý kiến của các sử gia, thực chất, Đổng Chiêu theo lệnh của Tào Tháo đến thăm dò ý kiến của Tuân Úc về việc này và muốn nhờ ông đứng ra mở đường dư luận cho Tào Tháo tiến phong. Nhưng Tuân Úc lại cố ý không biết rằng đó là bản ý của Tào Tháo mà chỉ là ý của riêng Đổng Chiêu, ông muốn qua Đổng Chiêu chuyển đến Tào Tháo ý kiến của mình, giúp Tào Tháo có một con đường rút lui và ngăn ý định trợ giúp Tào Tháo xưng hiệu của Đổng Chiêu.
Tuy nhiên, Tào Tháo đã có chủ ý xưng hiệu nên sau khi nghe Đổng Chiêu báo cáo tình hình, rất bực Tuân Úc. Việc xưng hiệu của Tào Tháo tạm hoãn.
Qua đời
Năm 212, Tào Tháo lại đi nam chinh đánh Tôn Quyền ở Nhu Tu. Khác với thường lệ, Tào Tháo không để ông trấn thủ kinh đô Hứa Xương nữa mà dâng biểu lên Hán Hiến Đế đề nghị để Tuân Úc ra lĩnh quân ở huyện Tiêu với chức vụ Quang lộc đại phu tham thừa tướng quân sự. Trên thực tế động thái này nhằm loại bỏ chức Thượng thư lệnh từ lâu của Tuân Úc. Việc Tào Tháo muốn xưng vương, tỏ rõ ý muốn đoạt ngôi nhà Hán đã khiến Tuân Úc quá thất vọng, ông không ngờ Tào Tháo là người xảo quyệt, lấy việc trợ giúp nhà Hán làm chiêu bài dần dần cướp ngôi
Tào Tháo nói về hai chú cháu họ Tuân: "Tuân lệnh quân tiến việc thiện, chưa tiến cử được không chịu thôi; Tuân quân sư trừ ác, chưa trừ bỏ xong không chịu dừng."
Gia đình
Ông nội: Tuân Thục (荀淑), tự Quý Hòa (季和), huyện lệnh Lan Lăng Cha: Tuân Côn (荀緄), tự Trọng Từ (仲慈), Tướng quốc Tế Nam *Chú bác: Tuân Kiệm (荀儉), tự Bá Từ (伯慈) Tuân Tĩnh (荀靖), tự Thúc Từ (叔慈) Tuân Đảo (荀燾), tự Từ Quang (慈光) Tuân Uông (荀汪), tự Mạnh Từ (孟慈) Tuân Sảng (荀爽), tự Từ Minh (慈明), giữ chức Tư không Tuân Túc (荀肅), tự Kính Từ (敬慈) Tuân Phu (荀旉), tự Ấu Từ (幼慈) Anh chị em ruột: Tuân Diễn (荀衍), tự Hưu Nhược (休若), anh thứ 3, phong Liệt hầu (列侯) Tuân Thầm (荀諶), tự Hữu Nhược (友若), anh thứ 4, mưu sĩ của Viên Thiệu Vợ: Đường thị (唐氏), con gái Đông Hán Trung thường thị Đường Hành (唐衡) *Con trai: *Tuân Uẩn (荀惲), tự Trường Thiến (长倩), con trưởng, giữ chức Hổ bôn Trung lang tướng, lấy con gái Tào Tháo, mất sớm Tuân Cán (荀甝), giữ chức Tán kỵ Thường thị, sau tiến tước Quảng Dương hương hầu (广阳乡侯) **Tuân Quân (荀頵), tự Ôn Bá (温伯), Vũ lâm Hữu giám *Tuân Tung (荀崧), tự Cảnh Du (景猷), quan đến Quang lộc Đại phu **Tuân Tiễn (荀羡), tự Lệnh Tắc (令则), quan đến Trung lang tướng, Thứ sử Từ Châu, Duyện Châu *Tuân Dực (荀霬), quan đến Trung lĩnh quân, lấy con gái Tư Mã Ý (司马懿) **Tuân Đảm (荀憺), giữ chức Thiếu phủ ***Tuân Khải (荀恺), tự Mậu Bá (茂伯), thời Tấn Vũ Đế giữ chức Thị trung → Chinh tây Tướng quân **Tuân Khôi (荀悝), tự Mậu Trung (茂中), giữ chức Hộ quân Tướng quân, truy tặng Xạ kỵ Tướng quân Tuân Vũ (荀俁), tự Thúc Thiến (叔倩), con thứ, giữ chức Ngự sử Trung thừa *Tuân Ngụ (荀寓), tự Cảnh Bá (景伯), quan đến Thượng thư **Tuân Vũ (荀羽), quan đến Thượng thư Tuân Sân (荀詵), tự Mạn Thiến (曼倩), có làm quan nhưng mất sớm Tuân Ỷ (荀顗), tự Cảnh Thiến (景倩), con thứ 6, Thượng thư nhà Ngụy, Thái úy nhà Tấn, phong Lâm Khang Hoài công (临淮康公) Tuân Huyền (荀玄), anh Tuân Ỷ, vì Ỷ không con nên lấy cháu Huyền là Tuân Tự (荀序) thừa tự; *Tuân Sán (荀粲), tự Phụng Thiến (奉倩) con út, nhà huyền học, lấy con gái Tào Hồng Con rể: Trần Quần (陈群), tự Trường Văn (长文)
Trong văn học
Tuân Úc xuất hiện trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung tại hồi 10. Ông cùng cháu là Tuân Du đến gặp Tào Tháo ở Đông quận và tiến cử những nhân tài khác cho Tào Tháo như Trình Dục, Quách Gia.
Mưu trí của Tuân Úc trong việc giúp Tào Tháo bình định trung nguyên được mô tả khá gần với sử sách. Tuy nhiên, La Quán Trung vẫn xuyên tạc sách lược của Tuân Úc từ "phụng Thiên tử lệnh cường hào" (奉天子以令不臣) thành "dùng thiên tử lệnh chư hầu" (挾天子以令諸侯).
Ông xuất hiện tới hồi thứ 61 thì tự vẫn khi được Tào Tháo gửi cho đồ hộp rỗng. Tam Quốc diễn nghĩa theo thuyết của Tôn Thịnh khi nói về cái chết của Tuân Úc.