✨Tam Quốc
Tam Quốc (giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại, được xem là khởi đầu của Ngụy–Tấn–Nam–Bắc triều và Lục triều, thường được tính từ niên hiệu Kiến An thứ nhất tức năm 196. Cuối thế kỷ thứ II, nhà Hán sau gần 400 năm tồn tại bắt đầu nổ ra chiến loạn và khủng hoảng liên tục khiến dân số giảm mạnh hơn 2/3, kinh tế bị tổn hại nghiêm trọng, Đông Hán diệt vong, ba nước mới được thành lập và là đối trọng của nhau đều chú trọng phát triển kinh tế đi đôi với ứng phó tình hình chiến tranh, tuy xã hội xung đột và bất ổn nhưng các lĩnh vực như văn học, nghệ thuật có những điểm nhấn lớn, khoa học kỹ thuật có nhiều tiến bộ và đóng góp quan trọng cho lịch sử đất nước.
Vào cuối thời Đông Hán, triều đình nhà Hán rối loạn do hàng loạt biến cố như khởi nghĩa Khăn Vàng, loạn Bắc Cung Bá Ngọc, khởi nghĩa quân Hắc Sơn, âm mưu phế truất Hán Linh Đế của Vương Phấn, loạn Trương Cử, Trương Thuần, và xung đột đỉnh điểm giữa ngoại thích đứng đầu bởi Hà Tiến và hoạn quan Thập thường thị. Năm 184, dưới thời Hán Linh Đế, khởi nghĩa Khăn Vàng do ba anh em Trương Giác lãnh đạo bắt đầu. Để trấn áp loạn Khăn Vàng, một mặt trung ương giao quyền cho Thứ sử, Thái thú, mặt khác cho phép các địa chủ tổ chức lực lượng vũ trang tư nhân để chống lại quân khởi nghĩa này. Sau đó, Đổng Trác loạn triều chính và kiểm soát trung ương, chuyển kinh đô từ Lạc Dương đến Trường An, các thế lực mở ra chiến dịch chống Đổng Trác. Trong giai đoạn này, Tào Tháo ủng hộ Hán Hiến Đế thoát khỏi sự kiểm soát của Đổng Trác để chạy trốn về Lạc Dương, rồi dời đô đến Hứa Xương, đánh bại nhiều thế lực và cuối cùng đánh bại Viên Thiệu trong trận Quan Độ năm 200, trở thành người kiểm soát miền Bắc Trung Quốc. Với mục đích thống nhất đất nước, Tào Tháo đem quân về phía Nam đến Kinh Châu với lực lượng vượt trội, nhưng bị liên quân của Tôn Quyền và Lưu Bị đánh bại trong trận Xích Bích vào mùa đông năm 208. Lưu Bị lợi dụng chiến thắng này để trở thành một thế lực hùng mạnh, đánh bại Lưu Chương để kiểm soát khu vực Tây Xuyên, cùng thời điểm với việc Tào Tháo hướng mũi nhọn về phía Tây, đánh bại Mã Đằng, Trương Lỗ, Hàn Toại và các lực lượng nổi dậy khác để đặt nền tảng cho Tam Quốc.
Năm 220, Tào Tháo bệnh chết, con là Tào Phi ép Hán Hiến Đế thiện nhượng và xưng đế, đặt quốc hiệu là "Ngụy", lịch sử gọi là "Tào Ngụy", Đông Hán nói riêng và nhà Hán nói chung chính thức diệt vong, bắt đầu thời đại Tam Quốc. Năm sau, Hán Trung Vương Lưu Bị xưng đế với tư cách hoàng tộc, đặt quốc hiệu là "Hán", lịch sử gọi là "Thục Hán", và là lần đầu tiên lịch sử Trung Quốc có hai vị Hoàng đế tồn tại cùng lúc. Sau trận Xích Bích, Lưu Bị và Tôn Quyền tích cực bành trướng thế lực, nhiều lần tranh giành Kinh Châu, cuối cùng Lưu Bị bại trận Di Lăng, Tôn Quyền giành được toàn bộ phía Nam Kinh Châu. Sau khi Lưu Bị chết bệnh năm 223, Gia Cát Lượng phò tá Lưu Thiện, cùng năm đó ông nối lại liên minh với Tôn Quyền. Thống lĩnh Dương Châu, Kinh Châu, và Giao Châu, Tôn Quyền chính thức xưng đế vào cuối năm 229, đặt quốc hiệu là "Ngô", lịch sử gọi là "Tôn Ngô". Kể từ đó, tình hình Tam Quốc chủ yếu là liên minh của Thục và Ngô chống lại Tào Ngụy, ranh giới của mỗi quốc gia không thay đổi nhiều. Năm 237, Công Tôn Uyên nổi dậy chống Tào Ngụy và thành lập một quốc gia ở Liêu Đông gọi là "Yên", nhưng nó đã bị diệt vong trong trận Ngụy – Yên vào năm 238. Năm 249, Tư Mã Ý phát động sự biến lăng Cao Bình nhằm tiêu diệt nhà Tào Sảng, đưa nhà Tư Mã dần nắm quyền kiểm soát triều đình Tào Ngụy. Năm 263, Tư Mã Chiêu vì mục đích chuẩn bị soán ngôi đã chỉ huy quân Ngụy trong chiến tranh Ngụy – Thục, tiêu diệt Thục Hán. Hai năm sau, Tư Mã Chiêu bệnh chết, con là Tư Mã Viêm phế truất Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán, thành lập nhà Tấn. Tây Tấn đã phát động chiến tranh Tấn – Ngô vào năm 280, tiêu diệt Đông Ngô và thống nhất Trung Quốc, chính thức kết thúc thời kỳ này và bước sang thời kỳ của nhà Tấn.
Thời Tam Quốc, mặc dù các nhà sáng lập là Tào Tháo, Tôn Kiên (cùng Tôn Sách, Tôn Quyền) và Lưu Bị có xuất thân và tính cách khác nhau, nhưng họ đều được xem là "ngoại nhân" dưới góc độ của giai cấp thống trị triều đại Đông Hán – tức giới văn nhân, thế gia vọng tộc giàu có và quyền thế, chỉ ra rằng không có nước nào hoàn thành được sự nghiệp thống nhất thiên hạ, và đây chỉ là giai đoạn phân liệt chuyển tiếp từ nhà Hán sang Nam Bắc triều. Các thế hệ sau thường nhớ lại những nhân vật có ảnh hưởng trong thời kỳ Tam Quốc. Tác phẩm "Tam quốc chí" do sử gia Trần Thọ viết và Bùi Tùng Chi chú giải là một phần trong bộ Tiền tứ sử của tổng tập Nhị thập tứ sử, và là cuốn sách then chốt để nghiên cứu lịch sử Tam Quốc. Kết hợp giữa lịch sử và truyện dân gian, La Quán Trung đã viết nên cuốn tiểu thuyết nhiều chương "Tam quốc diễn nghĩa", trở thành một trong tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc với nội hàm phong phú đã đi sâu vào văn hóa Á Đông. Thời đại này được xem là một giai đoạn nổi bật trong lịch sử, văn hóa, và xã hội Trung Quốc, góp phần tạo nên một quốc gia có nền văn hóa độc đáo của thế giới. Các nhà sử học đã mô tả thời kỳ Tam Quốc cùng Ngụy–Tấn–Nam–Bắc triều là "thời kỳ đen tối đầy hoa lệ" của lịch sử Trung Quốc, bởi vì sự hỗn loạn cho phép các anh hùng hào kiệt thi thố tài năng, văn hóa trăm hoa nở rộ.
Lịch sử
Loạn Khăn Vàng
Đông Hán suy tàn sau thời Hán Hòa Đế, hầu hết các quân chủ lên ngôi khi còn trẻ, và phần lớn đều do ngoại thích cai trị. Khi quân chủ trưởng thành, họ tìm kiếm sự hỗ trợ của các hoạn quan để nắm quyền, cho phép các hoạn quan kiểm soát triều đình. Kiểu đối đầu giữa ngoại thích và hoạn quan chính là "thích hoạn chi tranh", khiến triều đình rơi vào vòng khủng hoảng đấu đá nội bộ. Vào thời Hán Hoàn Đế và Hán Linh Đế, giới sĩ đại phu bất mãn với hoạn quan đang nắm quyền lũng đoạn triều chính lúc bấy giờ nên đã viết thư kháng nghị, nhưng hai lần kháng nghị đều bị trấn áp, sử gọi là "họa Đảng cố". Vào năm 159 tức Diên Hi thứ 2, Đại tướng quân Lương Ký và ngoại thích nhà họ Lương nắm quyền bị thảm sát, và hoạn quan Đan Siêu được phong tước Huyện hầu, khiến hoạn quan lại có thêm quyền lực. Trong họa Đảng cố đầu tiên vào năm 166 tức Diên Hi thứ 9, hoạn quan tố giác thanh lưu phái Lý Ưng đã kích động nho sinh kinh đô và phỉ báng chính trị triều đình, khiến khoảng 200 trí thức của thanh lưu phái trên cả nước bị bắt giữ, sang năm 168 tức Vĩnh Khang thứ nhất, đại thần Đậu Vũ đã cầu tình và bảo vệ trí thức, những người bị bắt tạm thời được thả và đưa về quê chịu án. Cùng năm 168 này, Hán Hoàn Đế chết, Hán Linh Đế lên ngôi mở ra năm Kiến Ninh thứ nhất, cuộc đảo chính của Đậu Vũ và Trần Phồn thất bại. Họa Đảng cố lần thứ hai diễn ra năm 169 tức Kiến Ninh thứ hai, hoạn quan Tào Tiết đã kết án tử hình hơn một trăm trí thức phái thanh lưu, trong đó có Lý Ưng, những người có liên quan khác bị giam cầm. Năm 172 tức Hy Bình thứ nhất, hơn một nghìn thái học sinh bị bắt, Hứa Xương nổi dậy ở Cối Kê, tự xưng là Dương Minh Hoàng Đế, sau đó 2 năm vào năm 174 tức Hy Bình thứ 3, Hứa Xương bị trấn áp và bị giết bởi tướng quân Tôn Kiên.trái|nhỏ|[[Khởi nghĩa Khăn Vàng khởi phát từ Cự Lộc, đe dọa kinh đô Lạc Dương.]]Ở địa phương, địa chủ hùng mạnh khắp nơi bắt đầu thôn tính ruộng đất, chèn ép bách tính khiến người dân lâm vào khổ cực. Năm 175 tức Hy Bình thứ 4, triều đình hiệu đính kinh điển của Nho gia là Ngũ kinh, khắc bia đá trước cửa Thái học, và đây là "Hy Bình thạch kinh" sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc, thể hiện mong muốn nho sinh ngừng việc đả kích triều chính, tập trung học hành. Năm 178 tức Quang Hóa thứ nhất, triều đình xây trường học mới ở Hồng Đô Môn Nội, tuyển 1.000 học sinh, cùng năm đó, tác giả của Hy Bình thạch kinh Thái Ung bị đày đến Sóc Bắc vì ủng hộ cải cách. Cùng với thiên tai liên miên, dân chúng lần lượt đứng lên, trở thành ngòi nổ của cát cứ quần hùng. trái|nhỏ|Tranh thời [[nhà Thanh vẽ thủ lĩnh quân Khăn Vàng Trương Giác.]] Vào tháng 2 năm 184 tức Quang Hoà thứ 7, Giáo chủ Thái Bình Đạo, người Cự Lộc là Trương Giác đã xúi giục một cuộc nổi loạn với hàng trăm nghìn tín đồ ủng hộ. Trương Giác tự xưng là Thiên Công tướng quân, và các em trai của ông là Trương Bảo và Trương Lương lần lượt xưng là Địa Công tướng quân và Nhân Công tướng quân, họ sử dụng khẩu hiệu là "Trời xanh đã hết, Trời vàng nên dựng. Đúng năm Giáp Tí, thiên hạ đại cát". Tín đồ nào cũng đội khăn màu vàng nên gọi là quân Khăn Vàng, và được lịch sử gọi là khởi nghĩa Khăn Vàng. Trương Giác kết nạp được 36 vạn giáo chúng, cứ 1 vạn người thì lập thành 1 "phương", mỗi phương đặt ra 1 đại soái. Ba mươi sáu phương đó được phân bố ở 8 trong tổng số 12 châu lớn của lãnh thổ nhà Đông Hán là Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, khiến phạm vi của cuộc nổi loạn mở rộng nhanh chóng ra cả nước. Quân khởi nghĩa liên kết với một số hoạn quan, dự định nổi dậy vào ngày 5 tháng 3 năm 184 nhưng bị phát hiện nên tiến hành sớm vào tháng 2. Sau khi triều đình nhận được báo cáo về cuộc nổi loạn, lập tức bổ nhiệm ngoại thích Hà Tiến làm Đại tướng quân để tăng cường phòng thủ cho kinh đô, sau đó hạ lệnh dẹp trừ Đảng cố. Hán Linh Đế cử quân do Hoàng Phủ Tung, Lư Thực và Chu Tuấn chỉ huy, đồng thời ra lệnh cho các châu, quận và hào cường địa chủ hùng mạnh chiêu mộ quân đội để hỗ trợ trấn áp, trong số đó có ba huynh đệ kết nghĩa là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi đem quân địa phương tham gia. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị dập tắt, Trương Giác chết vì bệnh, Trương Bảo và Trương Lương chết trận, nhưng dư quân Khăn Vàng tiếp tục hoạt động. Quân Khăn Vàng nhanh chóng bị đánh bại, nhưng triều đình vẫn tiếp tục tham ô và hỗn loạn, tàn dư cuộc nổi dậy của dân chúng nằm rải rác khắp đất nước, tận dụng tình hình chiếm lĩnh các thành trì hoặc làm thổ phỉ, thế cục không ổn định. Năm 185 tức Trung Bình thứ 2, các tướng quân phiệt Biện Chương và Hàn Toại ly khai triều đình, các tướng Trương Ôn, Đổng Trác được điều tới thảo phạt nhưng bất thành, sang năm 187 tức Trung Bình thứ 4, Vương Quốc, Hàn Toại và Mã Đằng chỉ huy binh biến vây hãm Quan Trung, quân phiệt Trương Cử xưng đế. nhỏ|Ba anh em [[Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi bàn bạc đem quân địa phương tham gia dẹp loạn Khăn Vàng.]] Để đối phó với các cuộc bạo loạn ở nhiều nơi, hoàng tộc Lưu Yên gửi bản tấu lên triều để củng cố quyền lực của các Thứ sử địa phương, lập chức mới gọi là "Mục", được chấp thuận và đồng thời được phong làm Châu mục Ích Châu, phong hoàng tộc Lưu Ngu làm Châu mục U Châu. Năm 188 tức Trung Bình thứ 5, Lưu Yên đề xuất lập các châu thiết mục nhằm trấn áp nổi loạn địa phương, lập tám chức Hiệu úy Tây Viên tham gia kiểm soát miền Tây, Viên Thiệu và Tào Tháo được phong làm Hiệu úy, bên cạnh đó thì Hoàng Phủ Tung và Đổng Trác thảo phạt Vương Quốc, Công Tôn Toản đánh bại Trương Thuần. Hán Linh Đế đã thông qua các đề nghị của Lưu Yên để cho Thứ sử có quyền lực quân sự địa phương và tăng cường kiểm soát các quận. Ngoài ra, một số Thứ sử đã được thăng chức làm Châu mục, những người được bổ nhiệm là tông thất như Lưu Biểu là Châu mục Kinh Châu và đại thần như Giả Tông là Châu mục Ký Châu. Biện pháp này khiến các châu chính thức trở thành khu hành chính cấp một, có lợi cho việc dẹp loạn địa phương, tuy nhiên, khi uy tín của triều đình suy yếu, các quan Châu mục, Thứ sử nắm thực quyền ở địa phương liền cát cứ địa phương, không phụ thuộc sự chỉ huy của triều đình. Về sau Lưu Ngu bị Viên Thiệu lợi dụng, được đề xuất làm Hoàng đế nhưng từ chối, còn Lưu Yên có tham vọng làm Hoàng đế ở Tứ Xuyên. Để cát cứ Ba Thục, Lưu Yên đã dùng thủ lĩnh Thiên sư Đạo Trương Lỗ chiếm Hán Trung để án ngữ con đường từ Trung Nguyên vào đất Thục, ly khai triều đình. Vì mục đích ổn định đất nước mà thiết lập chế độ châu mục nhưng ngược lại, chế độ này đã đẩy Đông Hán đi vào tình thế quần hùng ly khai. Tháng 4 năm 189 tức Trung Bình thứ 6, Hán Linh Đế băng hà, Hà Hoàng Hậu đưa con mình là Lưu Biện lên ngôi tức Thiếu Đế, do ngoại thích Hà Tiến nắm thực quyền. Các hoạn quan mà đứng đầu là Kiển Thạc lên kế hoạch để giết chết Hà Tiến nhằm đưa em trai Lưu Biện là Hoàng tử, Trần Lưu Vương Lưu Hiệp làm Hoàng đế nhưng bị Hà Tiến chặn đứng. Cũng lúc này, Hà Tiến muốn diệt trừ Thập thường thị do Trương Nhượng đứng đầu, được Viên Thiệu nhân cơ hội đề nghị tiêu diệt quyền lực của hoạn quan, nhưng do dự, vì vậy Viên Thiệu sau đó đề nghị chiêu mộ các lực lượng bên ngoài đóng ở kinh đô để trấn áp hoạn quan. Hà Tiến đã triệu Thứ sử Tịnh Châu Đổng Trác tiến về kinh đô, lệnh cho tướng Đinh Nguyên dẫn quân tiếp viện. Lúc bấy giờ, Ngự sử Trịnh Thái phản đối, can gián cho rằng Đổng Trác dung túng cho sự vô ơn và tham vọng vô độ, sẽ lợi dụng quyền lực loạn chính, tạo nên nguy hại triều đình, và lấy nhà Ân ra làm ví dụ, đồng thời được Thượng thư Lư Thực cùng tấu. Tuy nhiên Hà Tiến không nghe, và Đổng Trác liền dẫn quân vào kinh. Vào tháng 8, hoạn quan Trương Nhượng và phe cánh đã phục binh giết Hà Tiến và ngoại thích họ Hà, Hiệu úy Viên Thiệu đem quân giết hơn 2.000 hoạn quan do Thập thường thị đứng đầu, kết thúc thích hoạn chi tranh. Khi mà cả phe ngoại thích và hoạn quan đều bị tiêu diệt, quyền lực triều chính trở nên trống rỗng, đúng lúc này thì Đổng Trác vào Lạc Dương, phế truất Thiếu Đế và lập Lưu Hiệp lên làm Hán Hiến Đế, nắm toàn quyền triều chính. Đổng Trác tiếp quản quân đội dưới quyền chỉ huy của Hà Tiến, sang tháng 11 thì được phong làm Thừa tướng, Viên Thiệu cùng Tào Tháo chạy về phía Đông.
Loạn Đổng Trác và cát cứ quần hùng
nhỏ|Quân phiệt loạn chính và cầm quyền Đông Hán [[Đổng Trác.]] nhỏ|[[Đổng Trác mưu phế Hán Thiếu Đế.]] nhỏ|[[Tôn Kiên tìm thấy Ngọc tỷ truyền quốc ở Lạc Dương.]]
Trước tiên, Đổng Trác phế Thiếu Đế Lưu Biện, lập em trai cùng cha khác mẹ là Trần Lưu Vương Lưu Hiệp lên làm Hoàng đế, tức Hán Hiến Đế, vị hoàng đế cuối cùng của Đông Hán. Sau đó, Đổng Trác khôi phục danh dự của Đậu Vũ, Trần Phồn và những trí thức khác của thanh lưu phái đã bị bức hại trước đó, sử dụng lại con cháu của các trí thức này. Sau đó, ông bổ nhiệm Công Tôn Độ làm Thái thú Liêu Đông, Lưu Biểu làm Châu mục Kinh Châu, mở màn cho việc quần hùng cát cứ, đồng thời tiến hành tiêu diệt số lượng lớn những người bất đồng chính kiến, bao gồm cả việc thúc giục Lã Bố giết chết Đinh Nguyên – tướng cấm quân ở kinh đô, và nắm lấy quân đội của Đinh Nguyên. Từ khi Đổng Trác dẫn quân vào Lạc Dương vào năm 187, Hoàng đế Đông Hán rơi vào cảnh làm con tin của các quân phiệt, cục diện đất nước thống nhất trên thực tế đã sụp đổ, về sau sử sách nhận định thọ mệnh thực tế của Đông Hán chỉ là 165 năm. Năm 189, Thái thú Đông Quận Kiều Mạo làm giả di thư của tam công, phát hịch cho các châu, quận, kể tội trạng của Đổng Trác, hiệu triệu chư hầu chống Đổng.
Tháng giêng năm 190 tức Sơ Bình thứ nhất, sau khi Đổng Trác nắm thực quyền, Tào Tháo, Viên Thiệu, Viên Thuật tập hợp khởi nghĩa. Các châu, quận vùng Quan Đông đã tôn Viên Thiệu làm minh chủ và mở chiến dịch chống Đổng Trác. Châu mục Ký Châu Hàn Phức đóng quân ở Nghiệp Thành; Thái thú Bột Hải Viên Thiệu và Thái thú Hà Nội Vương Khuông cùng đóng quân ở Hà Nội của bờ Bắc sông Hoàng Hà; Thứ sử Duyện Châu Lưu Đại, Thái thú Trần Lưu Trương Mạc, Thái thú Quảng Lăng Trương Siêu, Thái thú Đông Quận Kiều Mạo, Thái thú Sơn Dương Viên Di, Kỵ đô úy tướng quân Bào Tín, Kiêu Kỵ tướng quân Tào Tháo gồm 7 người đóng quân tập trung ở Toan Tảo của quận Trần Lưu; Thứ sử Dự Châu Khổng Trụ đóng quân ở Nam Dĩnh Xuyên của Trần Lưu; Hậu tướng quân Viên Thuật và bộ hạ Tôn Kiên đóng quân ở Lỗ Dương. Quân số các lộ vùng Quan Đông đông thì hàng vạn, ít thí hàng ngàn, minh chủ là Viên Thiệu, và Trương Mạc chỉ huy quân chủ lực đóng ở Toan Tảo. Tháng 3 cùng năm, Đổng Trác dời đô về Trường An, người được phong làm Thái thú Liêu Đông là Công Tôn Độ tự xưng là Liêu Đông Hầu. Sau khi hội quân, chư hầu Quan Đông mở tiệc nhiều ngày và không chủ động tấn công, chỉ có Vương Khuông, Tào Tháo, Viên Thuật và Tôn Kiên chỉ huy quân chống lại Đổng Trác, và cũng chỉ có Tôn Kiên thắng trận, còn lại đều bị đánh bại.
Tháng giêng năm 191 tức Sở Bình thứ 2, Tôn Kiên đánh bại quân của Đổng Trác, tiến vào Lạc Dương, sau đó 3 tháng thì Đổng Trác chính thức đến Trường An, thêm 3 tháng nữa thì Tào Tháo đánh bại quân Hắc Sơn, Viên Thiệu nhận thụ phong làm Châu mục Ký Châu, Công Tôn Toản đánh bại quân Khăn Vàng ở Thanh Châu, Lưu Bị giúp Điền Khải chống Viên Đàm, được phong làm Bình Nguyên tướng. Sau đó, Tào Tháo bại trận trước quân Đổng Trác ở Hình Dương, còn Công Tôn Toản và Lưu Bị không tham gia các lộ chư hầu. Trong bối cảnh đó, đội quân của các chư hầu Quan Đông thành lập hơn một năm tự tan rã vì hết lương thảo và mâu thuẫn nội bộ giữa các tướng lĩnh. Sau khi Đổng Trác dời đô, liên quân Quan Đông lần lượt tan rã, các thế lực như Viên Thiệu, Viên Thuật bắt đầu mở rộng lãnh thổ và cát cứ một phương, đất nước bước vào thời kỳ quần hùng hỗn chiến. Viên Thiệu muốn lập Châu mục U Châu là Lưu Ngu làm Hoàng đế, nhưng bị Tào Tháo phản đối, sau đó đoạt lấy Ký Châu từ Hàn Phức. Châu mục Duyện Châu Lưu Đại giết Kiều Mạo, sau đó chết trận bởi bị quân Khăn Vàng Thanh Châu tấn công, làm cho chức vụ bỏ trống, rồi Bào Tín với những nhìn nhận về tài năng đã tiến cử Tào Tháo giữ chức vụ này.
Sau khi dời đô, Đổng Trác tự phong làm Thái sư, phong con trưởng làm Tương Vi Hầu, xây thành Mi Ổ làm căn cứ, giết hại bừa bãi các đại thần, cùng Vương Doãn duy trì kiểm soát triều chính. Hán Hiến Đế không còn quyền lực, bị điều khiển như con rối, và Đổng Trác đã đạt được mục đích "dùng Hoàng đế để chưởng quản các chư hầu", sau đó, các thế lực chống đối ở phía Đông cũng sụp đổ do bất hòa nội bộ. Tháng giêng năm 192 tức Sở Bình thứ 3, Tôn Kiên đối đầu với tướng Hoàng Tổ của Châu mục Kinh Châu Lưu Bưu thì tử trận, cùng tháng đó, Viên Thiệu đánh bại Công Tôn Toản ở Giới Kiều. Tháng 4, khi mà Đổng Trác trong thời điểm nắm quyền tuyệt đối ở trung ương thì bị Tư Đồ Vương Doãn cùng Hoàng Uyển, Sĩ Tôn Thụy và Lã Bố giết ở Trường An, đồng thời giết cả gia tộc; cùng tháng, Tào Tháo được phong làm Thứ sử Duyện Châu. Sau khi Đổng Trác bị giết, quần thần đều hả hê nhưng riêng Thái Ung lại tỏ ra buồn bã, ông bị bắt và bị kết án tử hình, chết trong tù. Mặc dù đã tiêu diệt được Đổng Trác nhưng Vương Doãn không trấn an hoặc xử lý được những bộ phận và phe phái còn lại của ông, không thu phục được Lã Bố. Vào tháng 6, Lý Thôi và Quách Dĩ giết Vương Doãn; Lã Bố chạy về phía Đông. Tại trung ương, thời kỳ Đổng Trác và sau này là Tào Tháo tiếp tục khống chế quần thần và biến quân chủ thành bù nhìn, duy trì chính sách dùng Hoàng đế chưởng quản các chư hầu, khiến cho Đông Hán chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, và mở ra thời đại Tam Quốc. Tháng 12 năm này, Tào Tháo đánh bại tàn quân Khăn Vàng, thu phục hơn 30 vạn binh mã, tạo thành quân Thanh Châu, thu hút được mưu sĩ Tuân Úc và Trình Dục, không lâu sau đó dưới mối quan hệ của Tuân Úc thì tiếp tục có được sự phục vụ của các quân sư Tuân Du, Chung Do và Quách Gia.
Thời điểm này, một phe cánh của Đồng Trác là Lý Thôi sau khi trốn khỏi Trường An, đã nghe theo mưu sĩ Giả Hủ với kế sách "phụng quốc gia dĩ chính thiên hạ", cầm quân quay trở lại đánh Trường An cùng với vây cánh của mình là Quách Dĩ, Phàn Trù, Trương Tế. Năm 195 tức Hưng Bình thứ 2, Lý Thôi và Quách Dĩ xảy ra nội đấu, lần lượt cưỡng ép quân chủ cùng các đại thần, bắt làm con tin, không quan tâm tới Tào Tháo ở phía Đông. Vào tháng 7, với sự phò tá của Trương Tế, Dương Phụng, Dương Định, và Đổng Thừa, Hán Hiến Đế chạy về Lạc Dương, bị đuổi theo truy bắt bởi Lý Thôi và Quách Dĩ. Giữa chừng thì Trương Tế không đồng ý với Đổng Thừa, quay lại theo Lý Thôi để tấn công quân triều đình. Lý Thôi giảng hòa với Quách Dĩ, cùng Trương Tế đuổi Hán Hiến Đế tới khe Tào Dương cách Thiểm Châu 60 dặm thì đuổi kịp, đánh bại Dương Phụng. Dương Phụng và Đổng Thừa một mặt giảng hòa với Lý Thôi, Trương Tế, mặt khác ngầm gọi thủ lĩnh quân Bạch Ba là Hàn Tiêm, Lý Nhạc và thủ lĩnh Hung Nô là Khứ Ty lại giúp. Trong trận tái chiến, 3 tướng đuổi theo bị đánh bại, phải rút về phía Tây. Tháng 7 năm 196 tức Kiến An thứ nhất, Hán Hiến Đế cùng quần thần liều chết chạy về phế tích Lạc Dương. Vào lúc này, dư đảng Khăn Vàng Dĩnh Xuyên cấu kết với Viên Thuật; Tào Tháo với đề xuất của Tuân Úc đã đem quân tới Dĩnh Xuyên để tiếp đón Hán Hiến Đế, sau đó đưa Hoàng đế về Hứa Xuyên vào tháng 8. Các thế lực Quan Đông biết được tin tức này, trong khi Viên Thiệu không nghe kế sách dùng Hoàng đế chưởng quản các chư hầu của Thư Thụ, thì Tào Tháo nghe theo chính sách bảo vệ thiên tử, trừng phạt kẻ không phục tùng triều chính của Mao Giới, giữ lấy Hán Hiến Đế từ đây. Tháng 11 năm này, Tào Tháo triển khai chính sách đồn điền. Năm sau, Quách Dĩ bị thuộc cấp là Ngũ Tập giết chết, rồi tiếp tục là Lý Thôi chết năm 198, dư đảng của Đồng Trác bị tiêu diệt toàn bộ, Quan Trung được kiểm soát trong tay Tào Tháo. trái|nhỏ|Các quần hùng cát cứ đất nước vào năm 195. Sau khi kết thúc chiến dịch chống Đổng, các quần hùng cát cứ địa phương lần lượt phát triển thế lực riêng của mình, không quan tâm tới vấn đề triều chính trung ương và Hán Hiến Đế. Tướng cũ của Đổng Trác là Trương Tế vì hết lương nuôi quân, thấy vùng Kinh Châu do Lưu Biểu trấn giữ được yên ổn, giàu mạnh liền đem quân cướp lương thực, hai bên giao tranh, Trương Tế tử trận, cháu ông là Trương Tú lên lãnh quyền chỉ huy quân đội do ông để lại, tiếp tục tham gia cuộc chiến quân phiệt. Biết Lưu Biểu có thiện chí, không có ý đối địch, Trương Tú bèn sai sứ sang liên minh, cùng nương tựa và liên thủ chống Tào Tháo. Cùng lúc đó, con cả Tôn Kiên là Tôn Sách sau khi cha mất đã quy thuận Viên Thuật, mượn binh bình định Giang Nam. Tại Giang Nam trong 4 năm 196–200, đối đấu với quân của Tôn Sách, lần lượt Thứ sử Dương Châu Lưu Do thua chạy, Thái thú Ngô Quận Hứa Cống, Thái thú Cối Kê Vương Lãng bại trận đầu hàng, Thái thú Dự Chương Hoa Hâm không đánh mà hàng. Cuối năm 199, sau hàng loạt trận đánh của chiến dịch Dương châu bất bại, Tôn Sách chiếm lấy 6 quận của Giang Đông, cùng Lưu Biểu giằng co và chờ đợi thời cơ tiến vào Trung Nguyên, nhưng chưa kịp tiến hành thì đã bị ám sát qua đời năm 200 tức Kiến An thứ 4, được Tào Tháo truy phong làm Thảo Nghịch tướng quân.
Ở một phía khác, năm 193 tức Sơ Bình thứ 4, Tào Tháo tiến đánh Từ Châu của Châu mục Đào Khiêm, giết hàng chục vạn người dân. Sang năm 194 tức Hưng Bình thứ nhất, ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi được Công Tôn Toản điều tới cứu trợ Đào Khiêm. Tháng 4 năm này, Trương Mạc theo Lã Bố, phản bội Tào Tháo, hai bên giao chiến tại Bộc Dương. Cuối năm này, Châu mục Ích Châu Lưu Yên chết, Lưu Chương kế vị, Đào Khiêm chết, Lưu Bị được tiến cử làm Châu mục Từ Châu. Phía Hán Trung thì Lưu Chương cùng Trương Lỗ đối chọi quyết liệt, hai phe giằng co, trong khi đó Mã Đằng và Hàn Toại phát triển thế lực riêng của mình ở Lương Châu, Ung Châu. Tại U Châu, Công Tôn Toản đánh bại Lưu Ngu, song không chiếm lĩnh khu vực này được lâu đã thua trận trước Viên Thiệu rồi tự sát. Tháng 5 năm 195 tức Hưng Bình thứ 2, Lã Bố thua trận Bộc Dương trước Tào Tháo, chạy về phía Từ Châu hướng Lưu Bị nhằm cầu viện, trước đó Lã Bố đã lần lượt đầu nhập vào lực lượng của Viên Thuật cùng Viên Thiệu, lưu lạc về Duyện Châu, từng cùng Trương Mạc liên thủ đánh Tào Tháo nhưng thua trận vì những kế sách khổ chiến của mưu sĩ Tào Tháo là Tuân Úc cùng Trình Dục. Năm 196 tức Kiến An thứ nhất, Viên Thuật đánh bại Lưu Bị, Lã Bố nhân cơ hội chiếm đoạt địa bàn và trở thành Châu mục Từ Châu, bắt giam gia quyến Lưu Bị. Cuối năm này, sau khi bị Lã Bố truy kích, Lưu Bị đầu nhập vào phe Tào Tháo. trái|nhỏ|Tranh vẽ [[Lã Bố cưỡi ngựa Xích Thố, cầm Phương Thiên Họa Kích tham trận của Utagawa Kuniyoshi năm 1836.]] Tháng 1 năm 197 tức Kiến An thứ 2, Viên Thuật xưng đế, tự xưng là "Trọng Gia", đóng đô ở Thọ Xuân thuộc quận Cửu Giang, Tào Tháo bại trận trước Trương Tú, mãnh tướng Điển Vi chết trận. Bởi tự xưng đế khi mà Đông Hán vẫn còn, Viên Thuật được xem là phản nghịch, bị nhiều thế lực nhắm vào, trong tháng 5 thì thua trận trước Lã Bố, đến tháng 9 thì thua trận một lần nữa trước cuộc tấn công của Tào Tháo. Năm 198, Tào Tháo và Lưu Bị liên thủ tiến đánh Lã Bố và vị tướng này bị bộ hạ phản bội, bắt sống đem đến giao trước mặt Tào Tháo. Vào lúc này, Lã Bố xin được đầu nhập theo nhằm lấy thiên hạ, Lưu Bị nhắc nhở không nên quên sự tình Đinh Nguyên, Đổng Trác – những người mà Lã Bố từng phục vụ và đều bị Lã Bố giết, thế là Tào Tháo giết Lã Bố tại Hạ Bì, lấy Từ Châu vào tay, và đây cũng là lần thứ 2 mà Lưu Bị mất đi châu này. Năm 200 tức Kiến An thứ 5, Đồng Thừa ám sát Tào Tháo nhưng thất bại, còn Lưu Bị thì rời khỏi Từ Châu, bị Tào Tháo truy kích và tiến đến đầu nhập vào Viên Thiệu, đóng quân ở Tiểu Bái.
Trong giai đoạn này, hai thế lực lớn mạnh và nổi bật nhất là Viên Thiệu cùng Tào Tháo, Viên Thiệu trước dùng kế chiếm cứ Ký Châu của Hàn Phức, tiếp theo đánh bại Điền Giai, Tang Hồng, đánh bại Công Tôn Toản. Viên Thuật cùng đường và chết năm 199, Viên Thiệu nắm giữ 4 châu Thanh, Ký, U, Tinh vùng Hà Bắc. Về phía Tào Tháo thì chinh chiến bốn phía, thu thập dư đảng quân Khăn Vàng, chọn tinh nhuệ hợp thành quân Thanh Châu trứ danh, khống chế Duyện Châu, giữ lấy Hán Hiến Đế bên mình. Ông đưa Hoàng đế dời đô về Hứa Xương, mượn danh nghĩa triều đình để thảo phạt các chư hầu, lần lượt đánh bại Viên Thuật, tiêu diệt Lữ Bố, hàng Trương Tú, đuổi Lưu Bị. Thế lực của ông phát triển chiếm lĩnh các châu Duyện, Dự, Từ, một bộ phận của Ti Lệ và Ung Châu tại Trung Nguyên. Với xuất thân là con trai của Tào Tung, từ gia đình bình thường, không có tiếng tăm, gia thế, cha là con nuôi của hoạn quan Tào Đằng, Tào Tháo có phương châm dùng người chỉ cần có tài, giữ Hán Hiến Đế, lấy Dĩnh Xuyên, Hứa Xương làm nơi tiếp đón nhân tài, được văn nhân ủng hộ, đồng thời nắm giữ thực quyền, củng cố địa vị của mình. Về sau ông còn đem con gái gả cho vua làm Hoàng hậu, trở thành ngoại thích Đông Hán, một tay nắm giữ triều chính, được xưng là "Đại gian hùng", đương nhiên trở thành phe lớn nhất của Tam Quốc. Tháng 8 năm 199 tức Kiến An thứ 4, bắt đầu tình cảnh 2 phe lớn nhất là Viên Thiệu và Tào Tháo trực tiếp giằng co và đối đầu bên bờ Hoàng Hà. Bởi thế lực của song phương tiếp tục lớn mạnh, các trận đánh nhỏ là Bạch Mã và Diên Tân diễn ra, dẫn tới trận chiến cuối cùng phát sinh ở bến Quan Độ, quyết phân thắng bại.
Trận Quan Độ và Xích Bích
Lúc bấy giờ, phía Bắc có Công Tôn Độ, phía Tây có Hàn Toại, Mã Đằng tỏ thái độ trung lập, Viên Thiệu không phải lo về phe phái sau lưng, có thể cùng Tào Tháo đối chiến, lực lượng chiếm ưu thế. Về phần Tào Tháo phía sau có Lưu Biểu vừa kết minh cùng Viên Thiệu vừa đối địch cùng Tôn Sách, còn có Sĩ Nhiếp cát cứ độc lập ở Giao Chỉ, Trương Lỗ chiếm cứ Hán Trung. trái|nhỏ|Bản đồ trận Quan Độ năm 200. nhỏ|Khinh kỵ binh và bộ binh quân Tào đánh bại quân Viên Thiệu ở trận Quan Độ, tranh vẽ lưu ở Bảo tàng Hứa Xương, Hà Nam. Trước tiên, Tào Tháo phái Vệ Ký làm sứ giả tới Ích Châu gặp Lưu Chương – người có mâu thuẫn với Lưu Biểu – nhằm nhờ chư hầu này tới Trường An, ngăn chặn sự phối hợp giữ Lưu Biểu và Viên Thiệu, nhưng không thành do đường Ích Châu vào Trung Nguyên đã bị án ngữ. Trong cung thì Hán Hiến Đế mật chiếu cho ngoại thích Đổng Thừa nhằm ám sát Tào Tháo nhưng thất bại, Lưu Bị cùng dư đảng của Đổng Thừa khởi binh ở Tiểu Bái nhưng bị Tào Tháo đánh lui, lúc này chuyển tới nương nhờ Viên Thiện, lưu lại Quan Vũ tại phe Tào Tháo. Tào Tháo lại phái Tang Bá đánh quân Viên Thiệu trên địa bàn Thanh Châu, góp phần tiêu trừ lực lượng tấn công của Viên Thiệu, bên cạnh đó, Thái thú Trường Sa phía Nam Kinh Châu là Trương Tiện hưởng ứng Tào Tháo và tiến đánh Lưu Biểu, làm Lưu Biểu không cách nào cùng Viên Thiệu hợp đồng tác chiến ở Quan Độ. Phía Giang Đô, người lãnh đạo là Tôn Sách ủng hộ Viên Thiệu, tiến đánh phe Tào Tháo ở Quảng Lăng nhưng bị đẩy lui bởi tướng Trần Đăng. Tôn Sách một lần nữa dự định tấn công kinh đô Hứa Xương nhưng bị ám sát và bỏ mình giữa chừng. Phía Viên Thiệu thì lung lạc dư đảng quân Khăn Vàng của tướng Lưu Tịch và Cung Đô ở Nhữ Nam, phái Lưu Bị tới liên thủ, nhưng thua cả hai trận trước tướng Tào Nhân và chính Tào Tháo ở đây. Nhận thấy Tào Tháo thắng nhiều trận và ngày càng lớn mạnh, Viện Thiệu ra quyết định đem quân xuôi Nam quyết chiến, mở trận Quan Độ. Ông tuần tự phái Đại tướng Nhan Lương tiến công Bạch Mã – nay là huyện Hoạt ở Đông Bắc Hứa Xương, Văn Xú tiến công Diên Tân nhưng lần lượt bị giết tại trận bởi Quan Vũ. Sau đó, Viên Thiệu tự mình lãnh binh tiến tới Nguyên Dương, mà Tào Tháo cũng đem binh tới bến Quan Độ, cùng xây luỹ cao hào sâu, giằng co dài đến nửa năm. Mưu sĩ Hứa Du hiến kế cho Viên Thiệu rằng nhân lúc Hứa Đô phòng thủ lỏng lẻo, nên phái một cánh binh đi vòng qua Quan Độ tập kích Hứa Đô nhưng Viên Thiệu không nghe, lại gặp đúng tình huống Hứa Du có người nhà bị tội vào ngục, xin mà không cho tha nên bất mãn, bỏ sang hàng Tào Tháo và hiến kế tấn công kho lương thực Ô Sào. Quân Tào Tháo tiến hành kế sách này, tấn công Ô Sào trong đêm và đốt cháy kho lương, giành được thắng lợi quyết định, khiến quân Viên Thiệu tan rã. Trận chiến này trở thành cột mốc cho việc Tào Tháo khống chế phương Bắc, và sau đó tiếp tục đánh bại quân Viên Thiệu ở trận Thương Đình năm 201 tức Kiến An thứ 6. Sang tháng 5 năm 202 tức Kiến An thứ 7, Viên Thiệu bệnh chết, hai con là Viên Đàm cùng Viên Thượng xung đột và đấu đá nhau. Trước đó ở thời kỳ trận Quan Độ, Lưu Bị rời khỏi phe Viên Thiệu, đến Kinh Châu nương nhờ Lưu Biểu, được đóng quân ở Tân Dã thuộc quận Nam Dương, là cửa ngõ Kinh Châu với phía Bắc, gần Hứa Xương nhất. Tháng 9 năm này, Tào Tháo đánh bại Viên Đàm cùng Viên Thượng, còn Lưu Bị đánh bại quân Tào Tháo ở Bác Vọng. trái|nhỏ|Bản đồ lịch sử Tào Tháo chinh phục miền Bắc từ trận Quan Độ đến trận Xích Bích. Tháng 8 năm 203 tức Kiến An thứ 8, Viên Đàm thua trận trước Viên Thượng, xin Tào Tháo cứu trợ. Tào Tháo nghe lời Tuân Du, đem quân lên phía Bắc, đáp ứng lời thỉnh cầu của Viên Đàm và chi viện, đồng thời lấy con gái của Viên Đàm cho con trai là Tào Chỉnh. Trong chiến dịch phương Bắc này, không bao lâu sau quân Tào Tháo chiếm lĩnh được căn cứ trung tâm là Nghiệp Thành bằng kế sách thủy chiến, xây dựng làm căn cứ riêng của lực lượng mình ở phía Bắc. Được ít lâu sau thì Viên Đàm phản bội Tào Tháo, Tào Tháo đem gửi trả con gái của Viên Đàm – tức con dâu của mình, rồi tiến đánh, Viên Đàm bại chết. Cũng ở phương Bắc, Thứ sử Tịnh Châu Cao Cán ban đầu theo Tào Tháo nhưng rồi phản bội, trốn về Kinh Châu nhưng bị giết trên đường năm 206. Năm 207 tức Kiến An thứ 12, Tào Tháo tiếp tục chiến dịch tiêu diệt nhà họ Viên. Viên Thượng chạy trốn tới phía Bắc U Châu, theo anh trai thứ hai là Viên Hi, nhưng bị hai bộ tướng phản bội, đành tiếp tục chạy lên phía Bắc Liêu Tây nương nhờ Thiền vu Đạp Đốn của Ô Hoàn. Tào Tháo thừa thắng xông lên, tại Liễu Thành đánh tan Ô Hoàn bằng chiến thuật tập kích của khinh kỵ binh, tướng Trương Liêu chém chết Đạp Đốn. Hai anh em họ Viên chạy sang Liêu Đông chỗ Thái thú Công Tôn Khang, nhưng bị chư hầu này phục giết dâng cho Tào Tháo, họ Viên chính thức diệt vong. Tháng 1 năm 208 tức Kiến An thứ 13, Tào Tháo sau 7 năm chiến chinh liên tục đã bình định Hà Bắc và thống lĩnh Trung Nguyên, khải hoàn trở lại Nghiệp Thành, đồng thời hủy bỏ chế độ Tam công, xây dựng thiết chế Thừa tướng rồi nhậm chức này vào tháng 6, sau đó 1 tháng thì đem quân tới Kinh Châu, chuẩn bị cho chiến dịch xuôi Nam nhằm thống nhất đất nước.
Về phía Đông Nam, năm 203 tức Kiến An thứ 8, con trai Tôn Kiên là Tôn Quyền kế thừa người anh là Tôn Sách, bình định quận Dự Chương, được phụ tá bởi Chu Du và Trương Chiêu rồi ổn định thế cục Dương Châu. Năm 208, mãnh tướng Cam Ninh của Hoàng Tổ quy thuận Tôn Quyền, đến tháng 6 thì Tôn Quyền đại thắng và giết Hoàng Tổ, thừa thế tiến quân tới Sài Tang. Về phía Lưu Bị, năm 207 thì qua sự giới thiệu của Tư Mã Huy, Từ Thứ, ông gặp được Gia Cát Lượng và nghe chiến lược Long Trung đối sách, mời về làm quân sư cho mình. Tháng 8 năm 208, Lưu Biểu chết bệnh, Lưu Bị đánh trận với Hạ Hầu Đôn và Vu Cấm ở gò Bác Vọng, đánh lui 2 vị tướng này. nhỏ|Bản đồ trận Xích Bích giữa quân Tào và liên quân Tôn–Lưu. nhỏ|Bia kỷ niệm trận Xích Bích, nay là thành phố [[Xích Bích (huyện cấp thị)|Xích Bích, địa cấp thị Hàm Ninh, tỉnh Hồ Bắc.]] Sau khi Lưu Biểu chết, con trai Lưu Tông kế vị và nhanh chóng quy hàng Tào Tháo, khiến Lưu Bị phải chạy trốn về phía Nam. Quân khinh kỵ binh của Tào Tháo được cử truy kích, phía Lưu Bị chia thành các nhánh rút lui, trong đó phần chính là tổ hợp quân và dân số lượng lớn, giao Triệu Vân bảo vệ gia quyến, Trương Phi chặn hậu. Phía chủ lực quân và dân của Lưu Bị bị đánh tan ở trận Trường Bản, bỏ chạy tán loạn, may mắn được Trương Phi chắn giữ nên chạy thoát về Hán Tân. Tào Tháo lấy mục tiêu chiếm Giang Lăng làm đầu, nên thúc quân tiến đến nắm giữ nơi đó, bỏ Lưu Bị không truy sát nữa. Do Tào Tháo đã chặn đường đi Giang Lăng, Lưu Bị chỉ còn cách đi sang phía Đông để hội quân với Quan Vũ và con cả Lưu Biểu là Lưu Kỳ ở Hán Khẩu. Về phía Đông, anh họ Tôn Quyền là Thái thú Dự Chương, Chinh Lỗ tướng quân Tôn Bí chuẩn bị đầu hàng Tào Tháo, nhưng Thái thú Ngô Quận là Chu Trị đã toàn lực thuyết phục và ngăn cản sự tình này. Lỗ Túc cùng Chu Du bàn chủ trương thảo phạt Tào Tháo, trước hết Lỗ Túc lấy phúng viếng Lưu Biểu làm cớ để tới Đương Dương bái phỏng Lưu Bị, thuyết phục cùng Tôn Quyền làm đồng minh kháng Tào Tháo, và Lưu Bị đã đồng ý. Sau đó Lỗ Túc cùng Gia Cát Lượng trở lại Sài Tang, thêm Chu Du để cùng thuyết phục Tôn Quyền. Song phương trải qua thảo luận đã quyết định kết minh, thành lập quân Tôn–Lưu chừng 5 vạn, lấy Chu Du, Trình Phổ là Chính và Phó Đô đốc. Tào Tháo từ phương Bắc đem xuống 30 vạn binh lực, tại Kinh Châu lại thu thêm được 10 vạn, tổng cộng chừng 40 vạn, chia 20 vạn quân là chủ lực tiền tuyến. Trong giai đoạn đầu, thủy quân Tôn–Lưu ngược dòng Trường Giang từ Hán Khẩu–Phàn Khẩu tới Xích Bích và chạm trán với tiền quân của Tào Tháo, giành được lợi thế bởi quân phương Bắc bị hành hạ bởi bệnh dịch, sĩ khí giảm do hành quân kéo dài, buộc phải lui về đóng quân ở Ô Lâm. Để giảm sự tròng trành của thuyền chiến, Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau, thấy động thái này, tướng Hoàng Cái Đông Ngô dùng kế trá hàng và được tin theo, rồi bơi sang đánh úp vào thủy trại Tào. Các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và lao thẳng vào hạm đội của quân Tào theo gió Đông, khiến các hạm đội nhanh chóng bắt lửa, số lớn binh mã chết cháy trên thuyền hoặc chết đuối dưới sông. Trong lúc quân Tào hoảng hốt vì đám cháy thì liên quân Tôn–Lưu tấn công, buộc quân Tào phải rút lui về phía đường cái Hoa Dung xuyên qua vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Liên quân Tôn–Lưu không ngừng truy kích khiến Tào Tháo phải hủy bỏ chiến dịch phương Nam, để lại Tào Hồng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến giữ Tương Dương và Mãn Sủng giữ Đương Dương. Đại bại trận Xích Bích là mấu chốt khiến Tào Tháo từ đây đã mất đi cơ hội thống nhất thiên hạ, quay trở lại kiểm soát miền Bắc, chuyển hướng về phía Tây của Mã Đằng, Trương Lỗ. nhỏ|Đô đốc chỉ huy liên minh Tôn–Lưu [[Chu Du phóng hỏa trận Xích Bích.]] Sau trận Xích Bích, Tôn Quyền cùng Lưu Bị triển khai phản công. Cuối năm 208, Tôn Quyền mở chiến dịch Hợp Phì – vị trí chiến lược bảo vệ Hứa Đô từ Đông Nam đối với quân Tào, đồng thời bảo vệ Giang Đông từ phía Bắc đối với quân Ngô, phái Trương Chiêu tấn công Hợp Phì phía Bắc Đang Đồ. Thành này được bảo vệ bởi tướng Lưu Phức và Tưởng Tế, phòng thủ thành công và chặn đứng chiến dịch ban đầu của Tôn Quyền. Cùng tiến phương Bắc, Đô đốc Chu Du suất lĩnh tướng Trình Phổ, Lã Mông, Cam Ninh tấn công Giang Lăng, trải qua hơn một năm khổ chiến được sử gọi là "Giang Lăng chi chiến", cuối cùng đã giành thắng lợi trước Tào Nhân và chiếm lĩnh Giang Lăng. Năm 209 tức Kiến An thứ 14, Chu Du tiếp tục đánh bại Tào Nhân, chiếm cứ Nam Quận. Ở mặt trận Kinh Châu, Tôn Quyền cùng Lưu Bị tranh đoạt kịch liệt, vào cuối năm 208 thì phía Nam châu này gồm 4 quận Vũ Lăng, Trường Sa, Linh Lăng, Quế Dương bị Lưu Bị và Gia Cát Lượng chiếm giữ, khiến Chu Du phải thừa nhận. Năm sau, Lưu Bị kết hôn với em gái Tôn Quyền là Tôn phu nhân, gia tăng sự gắn kết của liên minh Tôn–Lưu. Lưu Bị với việc chiếm lĩnh 4 quận của Kinh Nam đã lấy Giang Lăng làm nơi ngăn cách, đổi tên Giang Khẩu thành Công An, đặt căn cứ địa bảo vệ biên giới ở đây. Lúc này, tướng Hoàng Trung từ quận Trường Sa theo Lưu Bị, còn Tào Tháo thì tổ chức lại thủy quân ở huyện Tiều, từ Hoài Hà, qua Phì Thủy tới Hợp Phì, lập đồn điền ở Thược Pha, phái Trương Liêu, Nhạc Tiến, Lý Điển đóng quân ở Hợp Phì.
Năm 210 tức Kiến An thứ 15, Lưu Bị gặp Tôn Quyền tại Kinh Khẩu, yêu cầu mượn Kinh Châu, Chu Du ở Giang Lăng nghe tin bèn viết thư cho Tôn Quyền phản đối việc này, đề nghị giữ Lưu Bị lại nhằm cách ly các mãnh tướng Quan Vũ, Trương Phi, nhưng Lưu Bị không bị lung lạc và lui về Công An. Cùng giai đoạn đó, Chu Du cùng Tôn Du lập kế hoạch đánh Ích Châu với sự đồng ý của Tôn Quyền, chỉnh quân ở Giang Lăng để thực hiện chiến lược và mục tiêu, nhưng chẳng may vết thương cũ tái phát, Chu Du chết ở Ba Khâu năm 210 khi 36 tuổi. Trước khi chết, Chu Du dặn Tôn Quyền 3 việc gồm: tiến cử Lỗ Túc thay mình cầm quân; phòng Tào Tháo ở phía Bắc; và phòng Lưu Bị phía Tây. Sau khi kế vị, Lỗ Túc thay đổi chính sách của Chu Du, cấp quyền quản lý Nam Quận cho Lưu Bị theo chính sách kết minh Tôn–Lưu chống Tào, cho rằng phía Tôn chưa hoàn toàn thu phục lòng người Kinh Châu, vậy nên lợi dụng Lưu Bị quản lý khu vực này, tăng thêm một kẻ địch cho phe Tào, đồng thời chuẩn bị thu lại toàn bộ Kinh Châu trong tương lai. Cuối cùng Tôn Quyền nghe theo Lỗ Túc, chia cắt Kinh Châu lần thứ nhất, liên hợp chống cự Tào Tháo.
Đỉnh lập Tam Quốc
Trước trận Xích Bích, Lưu Chương phái bộ hạ Trương Tùng đến Kinh Châu tiếp Tào Tháo, thuận tiện xem xét quân tình. Phía Tào Tháo thì đang trong tình thế đắc ý vì vừa hoàn thành chiếm cứ miền Bắc, chuẩn bị đánh xuống miền Nam để thống nhất đất nước, căn bản không quan tâm đến sứ giả này, đối xử qua loa và khinh rẻ. Sau khi tiếp quân Tào, Trương Tùng bái phỏng Lưu Bị, nhận được đối xử cao quý, ông kính trọng và giới thiệu kỹ lưỡng Ích Châu cho phía Lưu Bị, khi trở về Ích Châu thì đề nghị Lưu Chương đoạn tuyệt quan hệ với Tào Tháo và kết minh cùng Lưu Bị. Phía Hán Trung bị chiếm cứ bởi Trương Lỗ, dần mở rộng thế lực từ xuất phát điểm phụ thuộc Lưu Yên cho đến tự chủ, Lưu Chương thừa kế Lưu Yên không thể khống chế nên giận dữ giết gia đình Trương Lỗ, biến hai bên thành thù, Tào Tháo thừa cơ mà vào khu vực này. Sau đại bại ở Xích Bích, Tào Tháo về phương Bắc, tích cực chiêu mộ nhân tài bằng tuyên bố "dùng người chỉ cần có tài", chuyên tâm nội chính, xây đài Đổng Tước ở Nghiệp Thành, bổ nhiệm con trai Tào Phi làm Trung Lang tướng.trái|nhỏ|Tượng [[Tào Tháo ở Hứa Xương.]]Năm 211 tức Kiến An thứ 16, Tào Tháo lệnh Ti Lệ giáo úy Chung Do cùng tướng quân Hạ Hầu Uyên tiến về Hán Trung thảo phạt Trương Lỗ. Các tướng Tây Lương thấy phe Tào không đánh họ ở chỗ gần mà đánh Trương Lỗ ở xa, nghi ngờ đối phương dùng kế "mượn đường Quắc diệt Ngu" nên 10 tướng gồm Hàn Toại, Mã Siêu, Hầu Tuyển, Trình Ngân, Dương Thu, Mã Ngoạn, Trương Hoành, Lương Hưng, Thành Nghi, Lý Kham cất 10 vạn quân làm phản, chiếm cứ Đồng Quan. Tháng 7 năm này, quân Tào đánh Mã Siêu, bí mật phái Từ Hoảng và Chu Linh vượt bến Bồ Bản, đóng trại ở Hà Tây để chặn đường lui của Mã Siêu. Mã Siêu phục kích bên bờ sông của Vị Nam nhưng Tào Tháo thoát nạn, sử dụng kế của Giả Hủ để ly gián Mã Siêu và Hàn Toại rồi đem quân tấn công trực diện và giành chiến thắng khiến Hàn Toại bỏ chạy về Kim Thành, Mã Siêu chạy sang bộ lạc của người Nhung. Tào Tháo dẫn quân truy kích Mã Siêu đến Yên Định nhưng chưa bắt được thì có tin Tôn Quyền mang quân đánh Trung Nguyên nên rút đại quân về phía Đông, để Hạ Hầu Uyên ở lại trấn giữ Trường An. Mã Siêu tập hợp người Khương, người Hồ quay trở lại tấn công các quận huyện Lũng Thượng, giết Thứ sử Lương Châu Vi Khang. Thủ hạ của Vi Khang là Dương Phụ khởi binh báo thù cho chủ, hợp binh với Hạ Hầu Uyên đánh bại Mã Siêu, khiến Mã Siêu phải chạy sang đầu hàng Trương Lỗ ở Hán Trung. Vùng Tây Lương cơ bản thuộc quyền kiểm soát của Tào Tháo. Tháng 12, Chung Do và Hạ Hầu Uyên đem quân chinh phạt Trương Lỗ, khiến chư hầu này sợ hãi không thôi, ở phía Lưu Chương thì Trương Tùng đề nghị mượn lực Lưu Bị và cũng đánh Trương Lỗ. Lưu Chương không nghe lời phản đối của phần đông bộ hạ, tiếp thu kế sách của Trương Tùng, phái Pháp Chính đi mời Lưu Bị tới Ích Châu, chính thức nhập Thục. Lưu Bị để Gia Cát Lượng cùng Quan Vũ, Triệu Vân ở lại trấn thủ Kinh Châu, cùng Bàng Thống, Hoàng Trung, Ngụy Diên tiến về Ích Châu, không lập tức tấn công Trương Lỗ như lời đề nghị của Lưu Chương mà đóng quân ở Hà Manh để thu lòng người trong 1 năm. trái|nhỏ|Cục diện Tam Quốc năm 215. Tháng 5 năm 212 tức Kiến An thứ 17, Tào Tháo về đến Hứa Xương, nhân danh Hán Hiến Đế hạ lệnh giết chết Mã Đằng, tru di tam tộc, giết hết những người cùng họ ở kinh thành. Tôn Quyền gửi thư thỉnh cầu Lưu Bị trở về Kinh Châu để cùng chống Tào Tháo, kế đến Lưu Bị nhận được thư rồi lấy cớ Kinh Châu báo nguy nên yêu cầu Lưu Chương cấp 1 vạn quân cùng lương thực, nhưng Lưu Chương chỉ cấp 4.000 quân. Trương Tùng viết thư khuyên Lưu Bị ở lại Ích Châu, thư truyền đến tay Lưu Chương khiến chư hầu này tức giận, xử tử Trương Tùng, đẩy mâu thuẫn hai bên lên đỉnh điểm, Lưu Bị bèn giết 2 tướng của Lưu Chương là Dương Hoài, Cao Bái, chiếm Bạch Thủy và mở chiến dịch Tây Xuyên tấn công Thành Đô. Tháng 9, Tôn Quyền xây dựng một thành trì mới tại Mạt Lăng, gọi là Kiến Nghiệp, sau đó 1 tháng thì trận chiến Tào – Tôn diễn ra ở Nhu Tu, bất phân thắng bại. Cuối năm này, Lưu Bị chính thức triển khai chiến dịch, Lưu Chương tìm cách phòng ngự các thành trì. Quân Lưu Bị do Hoàng Trung, Trác Ưng làm tiên phong đánh bại Trương Nhiệm, chiếm Bồi Thành, kéo hàng được tướng Lý Nghiêm, Ngô Ý rồi tiến tới vây Lạc Thành, triệu Trương Phi, Triệu Vân và Gia Cát Lượng vào Ích Châu trợ chiến. Năm 213 tức Kiến An thứ 18, Tào Tháo được phong tức Ngụy Công, Mã Siêu đầu nhập Trương Lỗ. Đến cuối năm, quân Kinh Châu tiếp ứng chia làm 2 đường gồm Trương Phi và Gia Cát Lượng đi đường phía Bắc, Triệu Vân đi đường phía Nam, cộng thêm văn thần Tưởng Uyển, Giản Ung và đều cùng giành thắng lợi liên tiếp. Sau năm 214 tức Kiến An thứ 19, Lưu Bị cùng Bàng Thống đánh Lạc Thành, đánh bại và giết Trương Nhiệm, Bàng Thống trúng tên tử trận. Lưu Bị chiêu hàng được Mã Siêu, các cánh quân đến Thành Đô, khiến Lưu Chương mở cửa xin hàng và được đưa về an trí cùng gia quyến tại thành Công An. Cùng thời điểm này, Tào Tháo giết Phục Hoàng Hậu cùng các thân thích khác của Hiến Đế. nhỏ|Vũ khí chông sắt bằng đồng của quân Thục Hán thu thập được trong [[trận chiến núi Định Quân Tào – Lưu, lưu trữ ở Bảo tàng Lịch sử Thiểm Tây.]] Sang năm sau tức Kiến An thứ 20, Tào Tháo đưa con gái mình lên làm Tào Hoàng Hậu, đến tháng 3 thì bắt đầu thảo phạt Trương Lỗ, tới Hán Trung sau đó 1 tháng thì đi qua Tán Quan, phá Dương Bình Quan thẳng tiến tới Nam Trịnh, khiến Trương Lỗ chạy về Ba Trung. Quân sư trong chiến dịch này là Tư Mã Ý đề nghị tiếp tục tiến sâu hơn về phía Tây để thảo phạt Lưu Bị, nhưng Tào Tháo nói: "Người khổ không biết đủ, đã bình Lũng, lại nhìn Thục". Tào Tháo không muốn thừa cơ tấn công đất Thục, phái Hạ Hầu Uyên trấn thủ ở đất Lũng, Hán Trung. Sang tháng 5, Tôn–Lưu tiến hành chia cắt Kinh Châu lần thứ 2, đến tháng 8 thì Tôn Quyền tiến đánh Hợp Phì nhưng đại bại. Tháng 11 năm này, Trương Lỗ đầu hàng Tào Tháo, từ đây chỉ còn ba thế lực Tào–Tôn–Lưu phân chia thiên hạ. Tháng 12, Trương Phi đem quân đánh lui Trương Cáp, đánh bại quân Tào ở Ba Quận. Tháng 5 năm 216 tức Kiến An thứ 21, Tào Tháo ép Hán Hiến Đế ra chiếu phong mình làm Ngụy Vương, thêm "cửu tích" trong lễ nghi của mình, phong con thứ Tào Phi làm Thế tử, tạo cơ sở phân lập quyền lực của cơ chế chính trị và quân sự Đông Hán. Sang năm sau, quân Tào tiến đánh Nhu Tu một lần nữa nhưng bất phân thắng bại, đành rút lui. Năm 218 tức Kiến An thứ 23, Cảnh Kỷ lập mưu giết Tào Tháo nhưng thất bại, bị xử tử, sang tháng 4 thì cử Tào Chương bình loạn Ô Hoàn và Tiên Ti, Kha Bỉ Năng đầu hàng. Sang tháng 9, Tào Tháo tiến vào chiếm giữ Trường An, chuẩn bị nghênh chiến Lưu Bị trong chiến dịch Hán Trung. Năm 219 tức Kiến An thứ 24, Lưu Bị thúc quân vượt qua sông Miện Thủy, đóng quân hạ trại tại núi Định Quân, mai phục ở phía sau đỉnh núi, đánh lừa được tướng Hạ Hầu Uyên và vị tướng này bị chém chết bởi Hoàng Trung. Nghe tin đại tướng tử trận, Tào Tháo đích thân mang đại quân qua hang Tà Cốc vào Xuyên để quyết chiến. Quân Lưu phái Triệu Vân đi cướp lương thảo, phòng thủ không giao chiến 1 tháng, tung tin làm giảm sĩ khí quân Tào, cho đến tháng 6 thì quân Tào phải rút khỏi Hán Trung, để Trương Cáp và Tào Hồng chia nhau đóng đồn ở Trần Thương và Vũ Đô, sai Tào Chân yểm trợ cho Tào Hồng dần dần rút khỏi Vũ Đô. Sau đó, quân Lưu Bị đánh Phòng Lăng, Thượng Dung và khiến các Thái thú đầu hàng, chiếm lĩnh toàn bộ Tây Xuyên và Đông Xuyên. Tháng 8, Lưu Bị tự xưng là Hán Trung Vương, bổ nhiệm Ngụy Diên làm Thái thú Hán Trung, phòng thủ căn cứ đặc biệt.nhỏ|Bảo tàng lưu trữ quân Tào trong các trận chiến với Đông Ngô tại [[Hợp Phì.]]Về phía Đông, năm 211 tức Kiến An thứ 16, Tôn Quyền bổ nhiệm Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu, Sĩ Nhiếp làm Tả tướng quân của Giao Châu, đồng thời bình định được Lĩnh Nam. Năm 215, khi mà Lưu Bị bình định được Ích Châu, Tôn Quyền lập tức điều Gia Cát Cẩn tới yêu cầu trả lại Kinh Châu, nhưng Lưu Bị trả lời rằng: "Đợi lấy được Lương Châu liền đem Kinh Châu trả lại toàn bộ", ý chẳng khác gì không muốn trả bởi Lương Châu được quân Tào chiếm giữ và xây dựng phòng thủ mạnh mẽ. Nghe lời đáp này, Tôn Quyền giận dữ, phái Lã Mông cướp 3 quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng. Lưu Bị ở Ích châu được tin vội mang 5 vạn quân về thành Công An, sai Quan Vũ mang quân đi đánh Lã Mông và Lỗ Túc. Cùng lúc, Tôn Quyền cũng đích thân tới Lục Khẩu và sai Lỗ Túc tiến đến Ích Dương. Hai bên chiến sự giằng co. Giữa lúc đó có tin đại quân Tào Tháo tiến vào Hán Trung đánh Trương Lỗ, Tây Xuyên bị uy hiếp, đồng thời khó có thể đoạt lại các quận đã mất bởi lực lượng của quân Tôn, Lưu Bị đành phải nhượng bộ, công nhận chủ quyền 3 quận bị chiếm của Tôn Quyền, xin đổi lấy Nam Quận. Tôn Quyền chấp thuận giảng hòa, phân chia lại Kinh châu, hai bên lấy sông Tương Thủy làm ranh giới. Tôn Quyền tiếp tục công nhận phân nửa Nam Quận và trả lại quận Linh Lăng cho Quan Vũ, đổi lại Quan Vũ giao lại quận Trường Sa và Quế Dương cho Tôn Quyền. Từ năm 215, địa bàn Kinh Châu của quân Lưu gồm các quận Vũ Lăng, Linh Lăng, Nghi Đô và một nửa Nam Quận cùng Giang Lăng. Phía Tôn Quyền, sau khi phân chia lại Kinh Châu, thừa dịp Tào Tháo đánh Trương Lỗ đã đem đại quân đánh Hợp Phí, giao chiến với Trương Liêu, Lý Điển, Nhạc Tiến nhưng bị đánh bại. Tháng 3 năm 217, Lỗ Túc chết, quyền lực Đại đô đốc được giao cho Lã Mông, chấp thuận đề xuất hàng Tào Tháo về ngoại giao. nhỏ|Hình vẽ [[Quan Vũ (áo xanh) cùng Quan Bình (mặt trắng), Chu Thương bên trái bắt được Bàng Đức trong chiến dịch Bắc phạt 219.]] Năm 219, Quan Vũ bắc phạt, tấn công Phàn Thành, giành chiến thắng trước quân của Tào Nhân. Phàn Thành không vẫn còn nằm trong tay quân Tào, Quan Vũ xua quân vây thành, đánh bại Vu Cấm, giết chết Bàng Đức, khiến tình hình nghiêm trọng đến nỗi Tào Tháo muốn bỏ quốc đô Hứa Xương chạy về phía Bắc. Tuy nhiên ở phía Tôn Quyền, với những mâu thuẫn ngoại giao với quân Lưu, đồng thời tuyên bố theo quân Tào và nhận thấy hậu phương Quan Vũ trống trải nên đã nắm lấy cơ hội này, sai Lã Mông cất quân dùng kế "áo trắng qua đò" mà đánh vào Kinh Châu. Hai tướng My Phương và Sĩ Nhân bất bình với Quan Vũ, bèn dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền. Quan Vũ hạ lệnh giải vây Phàn Thành rút lui về Kinh Châu mới biết Giang Lăng và Công An đã mất, phải chạy về Mạch Thành ở phía Đông Nam từ Hồ Bắc tới Đương Dương trong tình trạng thân cô thế cô. Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng Quan Vũ. Quan Vũ giả vờ đầu hàng, nhưng lại dẫn 10 kỵ quân chạy tới Lâm Thư nằm ở Tây Bắc Tương Dương thì bị tướng Tôn là Chu Nhiên và Phan Chương bắt mang về, bị giết chết vào mang đầu đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo hậu táng cho Quan Vũ, lại phong Tôn Quyền làm Phiêu Kị tướng quân, Châu mục Kinh Châu, tước Nam Xương Hầu, nhằm làm Lưu Bị thù hận Tôn Quyền. Từ đó Tôn Quyền khống chế toàn bộ phía Nam sông Trường Giang, gồm Kinh Châu, Dương Châu và Giao Châu. trái|nhỏ|[[Tào Phi soán ngôi nhà Hán, xưng đế lập Tào Ngụy năm 220.]] Tháng giêng năm 220 tức Kiến An thứ 25, Tào Tháo qua đời ở tuổi 65, Tào Phi kế thừa cha làm Ngụy Vương, Thừa tướng, đổi niên hiệu thành Diên Khang, sang tháng 2 thì áp dụng hệ thống quan cửu phẩm. Tới tháng 7, Mạnh Đạt đầu hàng quân Ngụy. Mùa thu năm đó, diễn ra sự kiện Tào Phi soán Hán, buộc Hán Hiến Đế thiện nhượng cho mình sau 30 năm làm vua bù nhìn, đổi xưng là Sơn Dương Công. Tháng 10, Tào Phi tự xưng là Ngụy Hoàng Đế, trở thành vị Hoàng đế đầu tiên của Tào Ngụy, đổi niên hiệu sang Hoàng Sơ, định đô tại Lạc Dương, truy xưng cha mình là Tào Tháo làm Vũ Hoàng Đế. Sau khi lên ngôi, ông đã tiếp tục cuộc chiến của cha mình chống lại Lưu Bị và Tôn Quyền trong giấc mộng thống nhất, bước sang thời kỳ Tam Quốc. Phía Tứ Xuyên, Lưu Bị không thừa nhận Tào Ngụy, không dùng niên hiệu Diên Khang và Hoàng Sơ. Sau khi lên ngôi, Tào Phi cử quân lấy lại Tương Dương từ tay Tôn Quyền. Tháng 1 năm 221 tức Hoàng Sơ thứ 2, Tào Phi bổ nhiệm gia chủ nhà họ Khổng, cháu 20 đời của Khổng Tử là Khổng Di làm Tông Thánh Hầu. Tháng tư năm này, Lưu Bị xưng đế dựa trên cơ sở là tông thất – song chưa được xác định của nhà Hán, lấy quốc hiệu là Hán để kế tục Lưu Hiệp, đặt niên hiệu là Chương Vũ, sử gọi là Thục Hán. Phía Đông thì Tôn Quyền dời đô tới Vũ Xương, phong Lưu Chương làm Châu mục Ích Châu – chức vụ cũ mà chư hầu này từng giữ, bổ nhiệm Chu Thái làm Thái thú Hán Trung, Phan Chương làm Thái thú Cố Lăng, là những hư chức của các địa phương thuộc Thục Hán, với ý đồ nhập Thục diệt Lưu Bị. Tháng 6, Tào Phi giết vợ mình là Chân Hoàng Hậu, Trương Phi bị ám sát mà chết trong thời điểm mà Lưu Bị lấy việc báo thù cho Quan Vũ