✨Tưởng Kinh Quốc

Tưởng Kinh Quốc

Tưởng Kinh Quốc (; POJ: ChiúⁿKeng-kok; phương ngữ Thượng Hải/phương ngữ Ninh Bá: tɕiã.tɕiŋ.ko?) (27 tháng 4 năm 1910 - 13 tháng 1 năm 1988) là một nhà chính trị người Đài Loan. Ông đã là tổng thống Trung Hoa Dân Quốc. Ông là con trai Tưởng Giới Thạch. Ông kế nhiệm cha làm Thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1972 - 1978, rồi Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1978 tới khi mất năm 1988. Dưới thời của ông, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc, dù vẫn độc đảng, bắt đầu cởi mở hơn với các phong trào chính trị đối lập. Về cuối đời, Tưởng giảm bớt sự kiểm soát của chính quyền với các phương tiện truyền thông, cũng như cho phép người bản địa Đài Loan tham gia nắm quyền, như người kế nhiệm ông là Lý Đăng Huy.

Thời trẻ

nhỏ|phải|Tưởng Kinh Quốc thời trẻ.

Là con của Tưởng Giới Thạch và người vợ đầu Mao Phúc Mai, Tưởng Kinh Quốc sinh ra tại Phụng Hóa, Chiết Giang, tên tự là Kiến Phong (建豐). Ông có một người em trai nuôi là Tưởng Vĩ Quốc. Tên của hai anh em lấy cảm hứng từ một câu trong Quốc ngữ là "kinh vĩ khuông thời thế", để chỉ người có tài giúp đời, cai trị quốc gia.

Dù rất yêu thương mẹ và bà nội (vốn tin thờ đạo Phật), quan hệ của ông với cha rất nghiêm khắc, thực tế và thường là xung khắc. Tưởng Giới Thạch trong mắt cậu con trai là một nhân vật độc tài, đôi lúc nhẫn tâm. Thậm chí cả trong thư nhà gửi cho con trai, Tưởng Giới Thạch vẫn ra lệnh cho con trai phải rèn luyện thư pháp.

Từ năm 1916 – 1919, Tưởng Kinh Quốc học tại một trường trung học ở Ngô Sơn, Khê Khẩu. Đến năm 1920, cha ông mời gia sư về dạy Tứ thư cho ông. Ngày 4 tháng 6 năm 1921, bà nội của Kinh Quốc mất. Sau đó Tưởng Giới Thạch đưa gia đình đến Thượng Hải. Mẹ kế của ông là Diêu Di Thành, trong gia đình họ Tưởng gọi là "dì Thượng Hải", đi cùng với họ. Trong giai đoạn này, Tưởng Giới Thạch tập trung dạy dỗ rèn luyện Kinh Quốc, trong khi dành hết tình yêu thương cho Vĩ Quốc.

Tại Thượng Hải, Kinh Quốc bị cha quản lý rất nghiêm, mỗi tuần phải viết một bức thiếp (thư pháp) khoảng 200-300 chữ. Tưởng Giới Thạch cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh điển Nho giáo và Anh ngữ, dù bản thân ông ta cũng chẳng thông thạo 2 lĩnh vực này. Ngày 20 tháng 3 năm 1924, Kinh Quốc trình bày với người cha nổi tiếng một kế hoạch phát triển Khê Khẩu. Tưởng Kinh Quốc dự định tạo điều kiện giáo dục miễn phí để mọi người đều có thể đọc và viết ít nhất 1000 chữ. Ông nói:

:'Con có một kiến nghị về trường Ngô Sơn, dù con không biết cha có chấp thuận hay không. Con nghĩ trường nên thành lập một lớp học đêm cho những người không có điều kiện đi học ban ngày. Tại trường của con cũng có một lớp học đêm rất thành công. Con có thể cung cấp một vài thông tin về lớp học đêm này:

Tên: trường tư thục đại chúng Wuschua Học phí: Miễn phí với dụng cụ học tập đi kèm Giờ học: 7 - 9 giờ tối Độ tuổi: 14 trở lên Thời gian khóa học: 16 hoặc 20 tuần.

Khi tốt nghiệp, học viên có thể đọc và viết ở mức cơ bản. Họ sẽ được cấp chứng chỉ nếu họ qua được các bài kiểm tra. Sách giáo khoa cho họ do Nhà xuấn bản Thương mại ấn hành, có nhan đề "Một nghìn ký tự phổ thông."

Con không rõ liệu cha có đồng ý với kiến nghị của con. Nhưng nếu một lớp học đêm được thành lập tại Ngô Sơn, sẽ đem lại lợi ích to lớn cho nhân dân địa phương.

Cha ông chỉ phản ứng lạnh nhạt; Tưởng Giới Thạch nói rằng nông dân không có hứng thú và cũng không cần được giáo dục bài bản.

Đầu năm 1925, Tưởng Kinh Quốc vào học Đại học Phố Đông Thượng Hải, nhưng ngay sau đó Tưởng Giới Thạch quyết định cho ông đi Bắc Kinh do tình hình hỗn loạn tại Thượng Hải lúc đó. Tại Bắc Kinh, ông nhập học một trường tư thục của một người bạn của cha ông, Ngô Trĩ Huy (吳稚暉), một nhà học giả và ngôn ngữ nổi tiếng. Trường này kết hợp nền giáo dục truyền thống và hiện đại. Tại đó, Kinh Quốc bắt đầu tự nhận là một người cách mạng cấp tiến và tham gia nhóm Cộng sản trong trường. Ý tưởng du học Liên Xô nảy nở trong tâm trí chàng trai trẻ. Trong chương trình hỗ trợ của Liên Xô với các nước Đông Á có một trường huấn luyện mà về sau trở thành Đại học Tôn Trung Sơn Moscow. Các sinh viên được các ủy viên Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung Hoa Quốc dân đảng, có sự tham vấn của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, lựa chọn.

Tưởng Kinh Quốc yêu cần Ngô Trĩ Huy tiến cử mình làm ứng cử viên của Quốc dân đảng. Dù không ngăn cản ông, Ngô là thành viên quan trọng trong phái "Hội nghị Tây Sơn" khuynh hữu chống cộng bên trong Quốc dân đảng, về sau tham gia trấn áp phe cộng sản và thúc đẩy Quốc dân đảng cắt đứt quan hệ với Moskva. Mùa hè năm 1925, Tưởng Kinh Quốc đến Hoàng Phố thảo luận với cha mình về kế hoạch du học tại Moskva.

Tưởng Giới Thạch không bằng lòng việc con trai sang Liên Xô du học, nhưng sau khi thảo luận với Trần Quả Phu (陳果夫) cuối cùng cũng đồng ý. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1996, em trai Trần Quả Phu là Lập Phu khẳng định rằng nguyên nhân khiến Tưởng Giới Thạch chấp thuận là vì ông ta vẫn cần sự ủng hộ của Liên Xô trong giai đoạn quyền thống trị của ông ta bên trong Quốc dân đảng còn chưa vững chắc.

Moskva

Năm 1925, Tưởng Kinh Quốc sang Moskva học tại Đại học Trung Sơn Moskva. Tại Moskva, Kinh Quốc có tên tiếng Nga là Nikolai Vladimirovich Elizarov (Николай Владимирович Елизаров). Ông được đặt dưới sự giám sát của Karl Radek tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông. Những bạn đồng khóa với ông đều là con cái trong những gia đình Trung Hoa có ảnh hưởng, đáng chú ý nhất là lãnh tụ Cộng sản Trung Hoa tương lai, Đặng Tiểu Bình. Kinh Quốc nhanh chóng đam mê chủ thuyết Cộng sản, nhất là Chủ nghĩa Trotsky; nhưng sau đó trong Đại thanh trừng, Joseph Stalin bí mật gặp riêng ông và ra lệnh cho ông công khai phê phán Chủ nghĩa Trotsky. Tưởng thậm chí còn nộp đơn xin gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô, nhưng bị từ chối.

Tuy nhiên, tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch thanh trừng phái tả Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản trong chính phủ trung ương, và trục xuất các cố vấn Xô viết. Sau vụ này, Tưởng Kinh Quốc viết một bài xã luận chỉ trích nặng nề hành động của cha mình, nhưng vẫn bị quản chế với tư cách một vị "khách" của Liên Xô mà thực tế là bị giam lỏng. Có giả thuyết về việc ông đã bị ép buộc phải viết bài xã luận đó, và người ta biết rằng vài năm trước đó, ông đã tận mắt chứng kiến những người bạn Trotskyist bị mật vụ Nga bắt giữ và hành quyết. Cùng với đó, Tưởng Kinh Quốc là một con át trong ván bài quan hệ Trung-Xô của Stalin. Thời gian này, Chính phủ Xô viết cho Tưởng Kinh Quốc đến lao động tại Nhà máy Cơ khí Ural, một nhà máy thép trên dãy Ural, Yekaterinburg, nơi ông gặp bà Faina Ipat'evna Vakhreva người Bạch Nga. Họ thành hôn ngày 15 tháng 3 năm 1935, bà về sau có tên tiếng Hoa là Tưởng Phương Lương. Tháng 12 cùng năm, con trai đầu của họ là Hiếu Văn ra đời. Con gái Hiếu Chương chào đời năm sau.

Tưởng Giới Thạch viết về tình hình này trong nhật ký, "Tôi không thể hi sinh lợi ích quốc gia vì con trai mình." Tưởng thậm chí còn từ chối trao đổi tù binh để đổi các lãnh tụ Đảng Cộng sản lấy con trai mình. Ông ta vẫn giữ thái độ kiên quyết không nhân nhượng đến tận năm 1937, và nói rằng "Tôi thà tuyệt hậu chứ không thể hi sinh lợi ích của quốc gia." Tưởng hoàn toàn không có ý định chấm dứt cuộc chiến chống cộng sản.

Stalin cuối cùng cũng cho phép Tưởng Kinh Quốc cùng người vợ Belarus và hai người con trở về Trung Hoa vào tháng 4 năm 1937 sau 12 năm sống tại Liên Xô. Lúc đó, phe Quốc dân dưới quyền Tưởng Giới Thạch và phe Cộng sản dưới quyền Mao Trạch Đông đã ký thỏa thuận ngừng bắn và thành lập Liên minh Quốc-Cộng lần thứ 2 để liên hợp kháng Nhật từ tháng 7. Stalin hi vọng người Trung Hoa sẽ giữ chân người Nhật khỏi vùng Viễn Đông Liên Xô, cũng như kết đồng minh cùng chống Nhật với Tưởng cha.

Sau khi trở về, cha ông cử cho ông một cố vấn, Từ Đạo Lâm, để giúp ông tái thích ứng với tình hình Trung Hoa. Tưởng Kinh Quốc đầu tiên được bổ nhiệm là chuyên viên tại tỉnh Giang Tây xa xôi, và có nhiều công lao trong việc huấn luyện quân đội cũng như chống tham nhũng, thuốc phiện và nạn mù chữ. Sau đó ông làm ủy viên Cán Nam (Hán tự: 贛南) từ năm 1939-1945; tại đó ông cấm hút thuốc, cờ bạc và mại dâm, quản lý hành chính, cũng như phát triển kinh tế xã hội địa phương. Những nỗ lực của ông được xem như một phép màu trong cuộc nội chiến tại Trung Hoa, có biệt danh là "Cán Nam tân chính" (贛南新政). Trong thời gian tại Cán Nam, từ năm 1940, ông thực hành một biện pháp gọi là "bàn thông tin công cộng", để dân chúng có thể đến gặp ông trực tiếp nếu họ có vấn đề gì, theo ghi chép, Tưởng Kinh Quốc đã tiếp tổng cộng 1,023 người trong năm 1942. Đối với lệnh cấm mại dâm và đóng cửa các nhà thổ, Tưởng cho những kỹ nữ trước đây vào làm công nhân trong nhà máy. Do lượng người tị nạn chiến tranh khổng lồ tại Cán Châu, hàng ngàn trẻ mồ côi phải sống trên đường phố; do đó vào tháng 6 năm 1942, Tưởng Kinh Quốc chính thức thành lập Làng trẻ em Trung Hoa (中華兒童新村) ở ngoại thành Cán Châu, với đầy đủ cơ sở vật chất như nhà trẻ, trường tiểu học, bệnh viện và trung tâm thể thao. Đó là những cải cách xã hội ông đã chứng kiến tại Liên Xô và cố gắng áp dụng chúng tại Trung Quốc. Cuối những năm 1930, ông gặp Vương Thăng, về sau trở thành cố vấn thân cận của ông trong suốt 50 năm.

Tổ chức bán quân sự "Đoàn thanh niên Tam Dân chủ nghĩa" do Tưởng kiểm soát. Tưởng cũng hay dùng cụm từ "bọn đại tư sản" với ý miệt thị khi nói về Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn.

Tưởng và vợ có thêm hai con trai, Hiếu Vũ, sinh tại Trùng Khánh, và Hiếu Dũng, sinh tại Thượng Hải. Ông cũng có hai người con riêng với Chương Á Nhược năm 1941, là 2 anh em sinh đôi: Chương Hiếu Từ và Chương Hiếu Nghiêm. (Chú ý chữ Hiếu đại diện cho thế hệ đời con của Kinh Quốc, dù là con chính thức hay con riêng.)

Vấn đề con tin

Jung Chang và Jon Halliday khẳng định rằng Tưởng Giới Thạch để cho quân Cộng sản trốn thoát trong Vạn lý Trường chinh, vì ông muốn con trai Tưởng Kinh Quốc được Joseph Stalin thả về. Điều này trái ngược với hồi ký của Tưởng Giới Thạch, rằng "Tôi không thể hi sinh lợi ích quốc gia vì con trai mình." Năm 1937, ông ta một lần nữa khẳng định: "Tôi thà tuyệt hậu chứ không thể hi sinh lợi ích của quốc gia." Tưởng hoàn toàn không có ý định chấm dứt cuộc chiến chống cộng sản.

Chang và Halliday cũng khẳng định rằng Tưởng Kinh Quốc bị "bắt cóc", trong khi thực tế là ông đi du học Liên Xô với sự chấp thuận của Tưởng Giới Thạch.

Khi những cuộc bạo động của các chủ thương bị phá sản vì mất hết vốn tiết kiệm nổ ra, Kinh Quốc bắt đầu tấn công vào tầng lớp giàu có, tịch thu tài sản và ra lệnh bắt giữ họ. Con trai của trùm xã hội đen Đỗ Nguyệt Thăng cũng bị ông bắt giữ. Kinh Quốc ra lệnh cho các đặc vụ Quốc dân đảng tập kích vào các kho hàng của Tập đoàn phát triển Dương Tử của Khổng Tường Hy và Khổng gia, vì công ty này bị cáo buộc tàng trữ lương thực. Vợ Khổng là Tống Ái Linh là chị gái Tống Mỹ Linh, mẹ kế của Kinh Quốc. Con trai Khổng là David bị bắt. Họ Khổng đáp trả bằng cách đe dọa sẽ tiết lộ những thông tin mật của Tưởng. Cuối cùng David được thả, còn Kinh Quốc phải từ chức, chấm dứt giai đoạn hợp tác với giới thương gia Thượng Hải.

Sự nghiệp chính trị tại Đài Loan

Sau khi phe Quốc dân mất đại lục về tay phe Cộng sản, Tưởng Kinh Quốc theo cha mình sang Đài Loan. Ngày 8 tháng 11 năm 1949, thủ đô Trung Hoa Dân Quốc dời từ Thành Đô về Đài Bắc, và sáng ngày 10 tháng 12 năm 1949, lực lượng Cộng sản tiến chiếm Thành Đô, thành phố cuối cùng trên đại lục do Quốc dân đảng kiểm soát. Tại đây Tưởng Giới Thạch và con trai Tưởng Kinh Quốc đã đích thân chỉ huy phòng thủ thành phố từ Học viện Quân sự Trung ương Thành Đô, trước khi lên chiếc máy bay Mỹ Linh bay về Đài Loan; họ không bao giờ trở lại được đại lục.

Năm 1950, Tưởng cha bổ nhiệm Tưởng con làm Tư lệnh Cảnh vệ, ông giữ chức này tới năm 1965. Một kẻ thù của Tưởng gia là Ngô Quốc Trinh bị Tưởng Kinh Quốc loại khỏi chức Chủ tịch tỉnh Đài Loan và phải trốn sang Hoa Kỳ năm 1953. Được đào tạo tại Liên Xô, Tưởng Kinh Quốc tiến hành một cuộc cải tổ quân đội theo kiểu Xô viết bên trong Quân lực Trung Hoa Dân Quốc, tái tổ chức và Xô viết hóa các cơ cấu quân đội, các hoạt động và cơ cấu của Quốc dân đảng được đưa vào toàn thể quân đội. Người chống đối việc này là Tôn Lập Nhân, từng được đào tạo tại Học viện Quân sự Virginia tại Hoa Kỳ. Tưởng đạo diễn một phiên tòa gây tranh cãi và ra lệnh bắt giữ tướng Tôn Lập Nhân vào tháng 8 năm 1955, với cáo buộc âm mưu làm chính biến với sự hỗ trợ của CIA chống lại Tưởng Giới Thạch và Quốc dân đảng. Tướng Tôn là một anh hùng chiến tranh tại Mặt trận Miến Điện chống Nhật, nên chỉ bị giam lỏng tại nhà tới sau khi Tưởng Kinh Quốc mất năm 1988. Ông cũng cho phép tùy tiện bắt giữ và tra tấn tù nhân. Những hoạt động của Tưởng Kinh Quốc trong thời gian giữ chức Tư lệnh Cảnh vệ vẫn bị chỉ trích mạnh mẽ là mở màn một thời kỳ vi phạm nhân quyền kéo dài tại Đài Loan.

Từ năm 1955-1960, Tưởng giám sát việc hoàn thành hệ thống đường cao tốc tại Đài Loan. Tưởng cha thăng chức cho con trai lên Bộ trưởng Quốc phòng từ năm 1965-1969. Ông là Phó thủ tướng từ năm 1969-1972, từng thoát chết trong một vụ ám sát khi đang viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1970. Sau đó ông được bổ nhiệm Thủ tướng từ năm 1972-1978. Những năm cuối đời Tưởng Giới Thạch, Tưởng cha dần dần bàn giao quyền lực cho con, và khi ông chết vào tháng 4 năm 1975, chức Tổng thống được trao lại cho Nghiêm Gia Cam, còn Tưởng Kinh Quốc kế thừa vị trí lãnh đạo Quốc dân đảng (ông chọn chức danh "Chủ tịch" thay vì chức danh "Tổng tài" của cha ông).

Nhiệm kỳ Tổng thống

Tưởng chính thức được Quốc hội bầu làm Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc kế nhiệm Nghiêm Gia Cam vào ngày 20 tháng 5 năm 1978. Ông tái đắc cử năm 1984. Luc đó, Quốc hội bao gồm toàn những nghị sĩ "muôn năm", từng được bầu ra trong giai đoạn 1947-48 trước khi đại lục thất thủ và được giữ ghế vô thời hạn.

Trong những năm đầu nhiệm kỳ, Tưởng duy trì hầu hết những chính sách độc tài của cha mình, tiếp tục cai trị Đài Loan bằng quân đội và luật lệ nghiêm khắc kể từ khi phe Quốc dân rút về đây. Trong một bước đi làm thay đổi những chính sách công nghiệp và kinh tế độc đoán của Tưởng cha, Kinh Quốc tiến hành "14 dự án xây dựng lớn", "10 dự án xây dựng lớn" và "12 dự án phát triển mới", góp phần tạo nên "Phép màu Đài Loan." Một trong những thành tựu lớn nhất của ông là thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, giúp Đài Loan tăng trưởng 13%/năm, có thu nhập đầu người $4,600, với dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai thế giới. Những chính sách kinh tế của Tưởng Kinh Quốc cũng tương tự với những kế hoạch kinh tế của Stalin ở chỗ nhà nước tăng cường tiết kiệm để tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng và những ngành công nghiệp quan trọng. Nhà nước đóng vai trò lớn trong việc khuyến khích và hỗ trợ khu vực tư nhân phát triển nhất là trong các ngành công nghiệp. Có thể ông đã học Stalin vì ông từng có thời gian dài sống ở Liên Xô tuy nhiên Tưởng Kinh Quốc khác Stalin ở chỗ ông đã kết hợp ưu điểm của kế hoạch và thị trường để tạo ra sự phát triển thần kỳ của Đài Loan.

Tuy nhiên, tháng 12 năm 1978, Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ ngưng thừa nhận Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ hợp hiến của Trung Quốc. Theo Đại luật quan hệ Đài Loan, Mỹ vẫn tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, nhưng đạo luật này lại cố tình nói mơ hồ về khả năng Mỹ bảo vệ Đài Loan trong trường hợp xảy ra xung đột. Hoa Kỳ cũng chấm dứt mọi liên lạc với chính phủ Tưởng và rút hết quân khỏi hòn đảo.

Trong một nỗ lực đưa thêm nhiều người gốc Đài Loan vào bộ máy hành chính, Tưởng Kinh Quốc đưa viên Tổng cục trưởng Tổng cục Quân chính đầy tham vọng là Tướng Vương Thăng, sang Paraguay làm Đại sứ (tháng 11 năm 1983) và đích thân lựa chọn Lý Đăng Huy làm Phó tổng thống Trung Hoa Dân Quốc (chính thức được bầu lên vào tháng 5 năm 1984), trở thành ứng cử viên số 1 thừa kế chức vụ Tổng thống.

Năm 1987, Tưởng cuối cùng cũng chấm dứt tình trạng thiết quân luật và cho phép dân Đài Loan viếng thăm người thân tại đại lục. Dưới thời ông, sự kiểm soát chính trị được dỡ bỏ và các đối thủ của Quốc dân đảng không còn bị cấm hội họp công khai hay xuất bản báo chí nữa. Các đảng phái đối lập, dù vẫn còn là bất hợp pháp, được cho phép hình thành mà không bị bắt bớ đàn áp. Khi Đảng Dân Tiến thành lập năm 1986, Tổng thống Tưởng bác bỏ những kiến nghị yêu cầu giải tán đảng này hay trừng phạt các lãnh tụ của đảng, nhưng các ứng cử viên của đảng vẫn phải tranh cử với tư cách độc lập trong phong trào Đảng ngoại.

Cái chết và di sản

Tưởng qua đời vì trụy tim và xuất huyết tại Đài Bắc ở tuổi 78. Cũng như cha mình, ông được quàn tạm tại trấn Đại Khê, huyện Đào Viên, nhưng một lăng mộ riêng được xây dựng tại Đầu Liêu, cách nơi chôn cất cha ông một dặm. Tưởng gia hi vọng chôn cất cả hai người tại Phụng Hóa một khi khôi phục được đại lục. Nhà soạn nhạc Hoàng Hữu Đệ (黃友棣) viết bài hát tưởng niệm Tưởng Kinh Quốc năm 1988. Tháng 1 năm 2004, Tưởng Phương Lương yêu cầu chôn cất 2 cha con tại Nghĩa trang quân đội Ngũ Chỉ Sơn, Tịch Chỉ, huyện Đài Bắc (nay là thành phố Tân Bắc). Một tang lễ cấp nhà nước được dự định tổ chức vào mùa xuân năm 2005, nhưng bị trì hoãn đến mùa đông cùng năm. Tang lễ bị trì hoãn vô thời hạn sau cái chết của con dâu cả của Tưởng Kinh Quốc, vốn tạm đứng đầu gia tộc họ Tưởng sau cái chết của Tưởng Phương Lương vào năm 2004. Tưởng Phương Lương và Tống Mỹ Linh đã đồng ý vào năm 1997 rằng Tưởng cha sẽ được chôn cất trước, nhưng về sau vẫn sẽ cải táng về đại lục.

Không giống cha mình là Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc có tiếng tăm tốt với dân bản địa cho đến ngày nay. Quốc dân đảng thường khơi dậy những ký ức và hình ảnh của ông cho những chiến dịch tranh cử, vì người kế nhiệm Tưởng trên chức Tổng thống và Chủ tịch Quốc dân đảng là Lý Đăng Huy ủng hộ chủ thuyết Đài Loan của người Đài Loan. Tuy nhiên, chính Tưởng Kinh Quốc cũng công nhận rằng ông đã trở thành "người Đài Loan" sau khi rời khỏi đại lục năm 1949.

Trong phong trào Đảng ngoại và về sau là Liên minh Toàn Lam, những ý kiến về Tưởng Kinh Quốc rất trái ngược nhau. Trong khi những người ủng hộ tự do chính trị công nhận những nỗ lực chấm dứt chế độ độc tài của ông, họ cũng chỉ ra rằng Đài Loan vẫn duy trì chế độ độc tài trong suốt những năm đầu, và chỉ bắt đầu dân chủ hóa trong những năm cuối nhiệm kỳ của ông. Tuy nhiên, trong Liên minh Toàn Lục, những nỗ lực và sự cởi mở kinh tế của ông được công nhận.

Dưới thời Tổng thống Trần Thủy Biển, hình ảnh của Tưởng Kinh Quốc và cha ông dần biến mất khỏi các tòa nhà công cộng. AIDC, công ty phòng không Trung Hoa Dân Quốc, đặt tên cho chiếc AIDC F-CK Indigenous Defense Fighter là Kinh Quốc để tưởng nhớ ông.

Tất cả những người con của ông đều du học nước ngoài, 2 trong số họ kết hôn tại Hoa Kỳ. Chỉ có hai người con còn sống: John Chiang (Tưởng Hiếu Nghiêm) là một chính trị gia Quốc dân đảng quan trọng, và Tưởng Hiếu Chương cùng con cháu đang sống tại Mỹ.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tưởng Kinh Quốc** (; POJ: ChiúⁿKeng-kok; phương ngữ Thượng Hải/phương ngữ Ninh Bá: tɕiã.tɕiŋ.ko?) (27 tháng 4 năm 1910 - 13 tháng 1 năm 1988) là một nhà chính trị người Đài Loan. Ông đã
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Tưởng Vĩ Quốc** (; 6 tháng 10 năm 1916 – 22 tháng 9 năm 1997) là con nuôi của tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch, em nuôi của tổng thống Tưởng Kinh
**Liên đoàn điền kinh quốc tế** (Tiếng Anh: **_International Association of Athletics Federations_**-IAAF) là một tổ chức điều hành thể thao quốc tế chuyên về điền kinh. Được thành lập vào ngày 17 tháng 7
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** đã được ghi chép lại khá sớm ở Hy Lạp và La Mã, ngay từ thời cổ đại. Một số nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã cổ
**Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** (gọi tắt: **Thủ tướng Anh**) là người đứng đầu chính phủ của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Thủ tướng lãnh đạo Nội
thumb|[[Tượng đài Quốc gia Devils Tower]] thumb|[[Tượng đài Quốc gia Navajo]] thumb|[[Tượng đài Quốc gia Tượng Nữ thần Tự do]] thumb|[[Tượng đài Quốc gia Fort Matanzas]] Một **Tượng đài Quốc gia** (tiếng Anh: _National Monument_)
**Hệ tư tưởng kinh tế** phân biệt chính nó với lý thuyết kinh tế trong việc mang tính quy phạm hơn là chỉ giải thích theo cách tiếp cận của nó. Các hệ tư tưởng
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
, cũng thường được gọi với tên phiên âm của nó là **Kuomintang** (**KMT**; ), là chính đảng do Tôn Trung Sơn và các chí sỹ của ông sáng lập và tồn tại cho đến
thumb|[[Max Schreck vai Bá tước Orlok trong bộ phim _Nosferatu_ (1922). Nhà phê bình kiêm nhà sử học Kim Newman cho rằng đây là bộ phim thiết lập khuôn mẫu cho phim kinh dị.]] thumb|Chiếc
**Nội chiến Quốc-Cộng lần thứ 2** (); diễn ra từ năm 1945 đến năm 1950, là cuộc chiến giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm tranh giành quyền kiểm soát Trung
thumb|[[Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) gặp nhau tại Hamburg, Đức tháng 7 năm 2017.]] thumb|Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Trung Quốcthumb|Đại sứ quán
**Tưởng Trung Chính** (; 31 tháng 10 năm 1887 – 5 tháng 4 năm 1975), tên chữ: **Giới Thạch** (介石) nên còn gọi là **Tưởng Giới Thạch**, tên khai sinh: **Thụy Nguyên** (瑞元) là một
**Trung Hoa Dân Quốc dời sang Đài Loan** còn được gọi là **Quốc Dân Đảng dời sang Đài Loan** hay **Cuộc rút lui vĩ đại **đề cập đến cuộc di cư của chính phủ Trung
**Quan hệ Đài Loan – Hàn Quốc** có tình trạng chính thức từ năm 1949 cho đến ngày 23 tháng 8 năm 1992, khi Đại Hàn Dân Quốc và Trung Hoa Dân Quốc đình chỉ
**_Đại nghiệp kiến quốc_** (建国大业, _Kiến quốc đại nghiệp_) là một bộ phim của điện ảnh Trung Quốc được Tập đoàn điện ảnh Trung Quốc đầu tư sản xuất vào năm 2009 để kỷ niệm
**Văn Thiên Tường** (, 6 tháng 6, 1236 - 9 tháng 1, 1283) là thừa tướng trung nghĩa lẫm liệt nhà Nam Tống, một thi sĩ nổi tiếng mà tư tưởng yêu nước đã thấm
**Faina Tưởng Phương Lương** (, tiếng Anh: Faina Chiang Fang-liang; 15 tháng 5 năm 1916 – 15 tháng 12 năm 2004) là phu nhân của Tổng thống Tưởng Kinh Quốc, bà là Đệ nhất phu
**Kinh tế học chính thống** là phần kiến thức, lý thuyết và mô hình kinh tế được giảng dạy bởi các trường đại học trên toàn thế giới, và thường được các nhà kinh tế
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Tưởng** (chữ Hán: 蔣, bính âm: _Jiǎng_) là một họ của người thuộc vùng Văn hóa Đông Á gồm Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên (Hangul: 장; Hanja: 蔣; Romaja quốc ngữ: Jang). Họ
**Tổng lý Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa**, thường được gọi là **Tổng lý Quốc vụ viện** hoặc **thủ tướng Trung Quốc**, là người đứng đầu chính phủ của Trung Quốc. Chức
nhỏ| Số đầu tiên của _tạp chí Ms._ đã xem xét kinh tế nữ quyền trong một tác phẩm của [[Jane O'Reilly ]] **Kinh tế nữ quyền** là bộ môn nghiên cứu về kinh tế
Chức vụ người đứng đầu cơ quan hành pháp (danh xưng thông dụng trong tiếng Việt là **Thủ tướng**) của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc trong lịch sử từng có vài lần thay đổi
**Cao Tường** (chữ Hán: 高祥/详/翔, ? - ?) người Nam Quận, Kinh Châu, là tướng lĩnh nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời và sự nghiệp Cao Tường
**Hội đồng An ninh Quốc gia** (**HAQ**; chữ Hán phồn thể: 國家安全會議; bính âm: Guójiā Ᾱnquán Huìyì; phiên âm bạch thoại: Kok-ka An-choân Hōe-gī) là cơ quan khuyên bảo về vấn đề quan hệ với
Tượng trần quốc tuấn ,trần hưng đạo vương được làm bằng chất liệu gỗ hương đá tự nhiên 100 Kích thước cao 802621cm Tượng trần quốc tuấn ,trần hưng đạo vương được trạm khắc tỉ
**Thần tượng** (), trong văn hóa người hâm mộ ở Hàn Quốc, được dùng để chỉ một người nổi tiếng hoạt động trong lĩnh vực K-pop, với tư cách là thành viên của nhóm nhạc
**Tượng đài hải dương quốc gia Papahānaumokuākea** (tên tiếng Anh: _Papahānaumokuākea Marine National Monument_, ), còn được gọi theo tên cũ là **Khu bảo tồn hải dương quốc gia quần đảo Tây bắc Hawaii** (tiếng
nhỏ|phải|Tranh vẽ Ngũ hổ tướng nhà Thục Hán **Ngũ hổ tướng** (五虎將) là chức danh hư cấu để gọi 5 vị tướng của Thục Hán là Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và
**Lục Trưng Tường** (; (1871-1949) là một chính khách, nhà ngoại giao người Trung Quốc và tu sĩ Công giáo La Mã. Ông từng đảm nhiệm chức vụ tương đương Thủ tướng là Quốc vụ
**Dân tộc Nga** (Giản thể: 俄罗斯族, Phồn thể: 俄羅斯族, Bính âm: Éluósī-zú, Hán Việt: Nga La Tư tộc) là một trong 56 dân tộc được công nhận chính thức của Cộng hòa Nhân dân Trung
**Bí thư trưởng Phủ Tổng thống** (chữ Hán: _中華民國總統府秘書長_, phiên âm Hán Việt: _Trung Hoa Dân Quốc Tổng thống phủ Bí thư trưởng_) là người đứng đầu Phủ Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, do
**Đặng Tiểu Bình** ( giản thể: 邓小平; phồn thể: 鄧小平; bính âm: _Dèng Xiǎopíng_; 22 tháng 8 năm 1904 - 19 tháng 2 năm 1997), tên khai sinh là **Đặng Tiên Thánh** (邓先聖) là một
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**_Kinh Dịch_** (chữ Nôm: 經易), tên gốc là **_Dịch Kinh_** (chữ Hán: 易經), là một sách bói toán cổ xưa của Trung Quốc, nằm trong hàng ngũ những kinh điển cổ xưa nhất của nền
**Bắc Kinh** (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với
**_Kinh Thi_** () là một bộ tổng tập thơ ca vô danh của Trung Quốc, một trong năm bộ sách kinh điển của Nho giáo. Các bài thơ trong _Kinh Thi_ được sáng tác trong
**_Trang Tử_**, hay còn được biết đến rộng rãi hơn trong tiếng Việt với tên gọi **_Nam Hoa kinh_**, là một tác phẩm triết học, văn học Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc (476–221 TCN)
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Kinh tế học quốc tế** là một bộ môn khoa học, một chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học
**Trung Hoa Dân Quốc** (Tiếng Trung: 中華民國; Bính âm: Zhōnghuá Mínguó; Tiếng Anh: Republic Of China) là một quốc gia cộng hòa đã kiểm soát chủ quyền với toàn bộ Trung Quốc từ năm 1912
**Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa** ( - **NSDAP**), thường được gọi là **Đảng Quốc Xã** trong tiếng Việt, là đảng cầm quyền Đức trong thời kỳ Đức Quốc Xã. Lãnh
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam**, thường được gọi ngắn gọn hơn là **Bộ Quốc phòng Việt Nam** hay đơn giản là **Bộ Quốc phòng** (**BQP**), là cơ quan
**Đức Quốc Xã**, còn gọi là **Đệ Tam Đế chế** hay **Đế chế thứ ba** () hoặc với tên chính thức là **Đế chế Đức** (), là nước Đức trong thời kỳ 1933–1945 đặt dưới
**Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Richard Nixon** năm 1972 là 1 sự kiện quan trọng trong lịch sử ngành Ngoại giao hiện đại. Chuyến thăm lịch sử đánh dấu sự thay đổi
**Nội chiến Trung Quốc** hay **Quốc Cộng nội chiến** (), kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950, là một cuộc nội chiến tại Trung Quốc đại lục (với chính quyền
**Đế quốc Brasil** là một nhà nước tồn tại vào thế kỷ 19, có chủ quyền đối với các lãnh thổ tạo thành Brasil và Uruguay (cho đến năm 1828). Đế quốc Brasil là một