✨Lịch sử tư tưởng kinh tế

Lịch sử tư tưởng kinh tế

Lịch sử tư tưởng kinh tế là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư tưởng kinh tế gồm nhiều trường phái tư tưởng kinh tế khác nhau. Các tác gia Hy Lạp cổ đại như triết gia Aristotle xem xét những ý tưởng về nghệ thuật đạt được sự giàu có và nêu ra câu hỏi liệu tài sản tốt nhất là nên nằm trong tay cá nhân hay công cộng. Vào thời Trung cổ, các học giả như Thomas Aquinas tranh luận rằng các doanh nghiệp có nghĩa vụ về mặt đạo đức phải bán hàng hóa ở mức giá công bằng.

Triết gia người Scotland Adam Smith thường được trích dẫn là cha đẻ của kinh tế học hiện đại bởi tác phẩm kinh điển của ông Sự giàu có của các quốc gia. Những ý tưởng của ông được xây dựng dựa trên công trình của những người đi trước trong thế kỷ 18. Cuốn sách của ông xuất hiện vào thời kỳ ngay trước cuộc cách mạng công nghiệp Anh và gắn với nhiều thay đổi lớn trong nền kinh tế.

Những người tiếp nối của Smith bao gồm các kinh tế gia kinh điển như linh mục Thomas Malthus, Jean-Baptiste Say, David Ricardo và John Stuart Mill. Họ tìm hiểu cách mà các giai cấp địa chủ, tư bản và người lao động sản xuất và đóng góp vào sản lượng quốc gia và mô hình hóa các ảnh hưởng của dân số và thương mại quốc tế. Tại London, Karl Marx đã nghiên cứu hệ thống tư bản chủ nghĩa mà ông cho rằng có bản chất là sự bóc lột giá trị thặng dư. Từ khoảng năm 1870, các kinh tế gia tân cổ điển tìm cách xây dựng kinh tế học dựa trên toán học và khoa học thống kê tách biệt ra khỏi chính trị.

Sau những cuộc chiến vào đầu thế kỷ 20, John Maynard Keynes dẫn đầu một học thuyết cổ súy cho sự can thiệp của chính quyền vào các vấn đề kinh tế bằng chính sách tài khóa để kích thích nhu cầu và tăng trưởng. Khi thế giới chia rẽ giữa những nước tư bản chủ nghĩa (thế giới thứ nhất), cộng sản chủ nghĩa (thế giới thứ hai) và các nước nghèo (thế giới thứ ba), sự thống nhất thời hậu chiến cũng đổ vỡ. Những kinh tế gia như Milton Friedman và Friedrich von Hayek cảnh báo về việc chính phủ can thiệp quá nhiều và tập trung vào những học thuyết về sự thịnh vượng có thể đạt được thông qua chính sách tiền tệ và giảm bớt luật lệ cũng như can thiệp.

Những chính sách Keynes bắt đầu thất thế từ những năm 1970 với sự xuất hiện của cái gọi là trường phái tân cổ điển, với những nhà lý luận chủ đạo như Robert Lucas và Edward Prescott. Những nhà kinh tế học Keynes mới phản bác lại và gây ra một cuộc tranh luận kéo dài trong kinh tế học vĩ mô. Những nhà kinh tế học phát triển như Amartya Sen và kinh tế học thông tin như Joseph Stiglitz cũng giới thiệu các ý tưởng mới đối với tư tưởng kinh tế.

Tư tưởng kinh tế sơ khai

Những cuộc trao đổi sớm nhất về kinh tế học có từ thời cổ đại. Khi đó, và cho tới cuộc cách mạng công nghiệp, kinh tế học không phải là một ngành khoa học riêng rẽ mà là một bộ phận của triết học. Ở Athens cổ đại, một xã hội dựa trên chế độ sở hữu nô lệ đồng thời với nền dân chủ thị dân, cuốn sách Nền cộng hòa của Plato đã có đề cập tới lao động và sản xuất. Nhưng học trò của ông Aristotle mới bắt đầu đưa ra những lập luận rõ ràng và quen thuộc, hiện vẫn còn được dẫn lại trong kinh tế học.

Aristotle

Tác phẩm Chính trị học (khoảng 350 trước công nguyên) của Aristotle chủ yếu phân tích những hình thức khác nhau của nhà nước (quân chủ, quý tộc, lập hiến, độc tài, tập đoàn trị, dân chủ) như một phê bình với những ủng hộ của Plato dành cho một giai cấp thống trị bao gồm "các vị vua về triết học". Riêng với các kinh tế gia, Plato vẽ ra một xã hội dựa trên cơ sở sở hữu chung về các nguồn lực. Aristotle coi mô hình này thực chất là kiểu chính quyền tập đoàn trị đáng lên án. Trong Chính trị học, quyển hai, phần năm, ông lập luận rằng,

Dù Aristotle chắc chắn cũng ủng hộ nhiều thứ phải được sở hữu chung, ông lập luận rằng mọi thứ không thể là sở hữu chung, đơn giản vì "bản chất độc ác của con người". "Rõ ràng tốt hơn là tài sản phải thuộc sở hữu tư nhân", Aristotle viết, "nhưng việc sử dụng cho mục đích chung, và một số ngành nghề đặc biệt cũng cần sự sở hữu tài sản chung mà các nhà lập pháp phải ấn định". Trong Chính trị học, quyển 1, Aristotle thảo luận về bản chất chung của hộ gia đình và trao đổi trên thị trường. Với ông, có những hoạt động nhất định thuộc về một kiểu "nghệ thuật làm giàu". Tiền bạc chỉ có mục đích duy nhất là trung gian cho sự trao đổi, nghĩa là bản chất tiền bạc "vô giá trị... không hữu ích theo nghĩa là một phương tiện cho các nhu cầu cần thiết của đời sống".

Tuy nhiên, vì tính phương tiện của tiền, nhiều người bị ám ảnh bởi việc tích tụ tiền bạc. "Làm giàu" cho một hộ gia đình là việc "cần thiết và đáng vinh danh", trong khi chỉ đơn giản tích tụ tiền bạc vì sự ảm ảnh là "thiếu danh dự". Aristotle cũng là một người phản đối việc làm giàu bằng các phương tiện độc quyền.

Thời Trung cổ

Thomas Aquinas (1225-1274) là một nhà thần học người Ý và là một tác giả về các vấn đề kinh tế. Ông giảng dạy ở cả đại học Cologne và đại học Paris, và là một thành viên trong nhóm các học giả Công giáo La Mã trường phái Triết học kinh viện, những người không chỉ tranh luận về thần học, mà đưa các vấn đề sang cả địa hạt triết học và khoa học. Trong tác phẩm của ông, Summa Theologica, Aquinas nêu ra ý tưởng về giá cả công bằng, mà ông cho rằng cần thiết để tạo ra một xã hội trật tự. Có nhiều điểm rất giống với khái niệm hiện đại về sự cân bằng trong dài hạn, giá công bằng được coi là giá vừa đủ để bù đắp cho các chi phí sản xuất, bao gồm việc trả lương cho người lao động đủ nuôi sống bản thân và gia đình. Ông lập luận sẽ là vô đạo đức nếu người bán nâng giá đơn giản vì người mua có nhu cầu bức thiết cho một sản phẩm.

Aquinas trao đổi về nhiều đề tài thông qua hình thức hỏi-đáp, trong đó có một phần đáng kể bàn luận về học thuyết của Aristotle. Những câu hỏi 77 và 78 trong Summa Theologica liên quan tới các vấn đề kinh tế, chủ yếu là giá công bằng, và sự trung thực của người bán trong việc phân phát các hàng hóa bị lỗi. Aquinas lập luận chống lại bất cứ hình thức lừa gạt nào về đề xuất phải trả đền bù đi kèm với hàng hóa bị lỗi. Trong khi luật của con người có thể không xử lý được những giao dịch bất công, những kẻ lừa gạt vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm trước Chúa, theo quan điểm của Aquinas. Một trong những nhà phê bình chính của Aquinas là Duns Scotus (1265-1308) với tác phẩm Sententiae (1295).

Gốc gác ở Duns, Scotland, ông dạy ở các đại học Oxford, Cologne và Paris. Scotus cho rằng có thể tính được giá công bằng chính xác hơn so với đề xuất chỉ về mặt ý tưởng của Aquinas, dựa trên chi phí lao động và các chi phí khác, dù ông thừa nhận chi phí khác là khó định lượng vì người mua và người bán thường có suy nghĩ khác nhau về việc thế nào là giá công bằng. Nếu các bên tham gia không được hưởng lợi từ giao dịch, theo quan điểm của Scotus, họ sẽ không tiến hành trao đổi. Scotus cũng bênh vực các thương buôn vì họ có vai trò hữu ích và cần thiết cho xã hội, vận chuyển hàng hóa và đưa chúng đến cộng đồng.

Chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa dân tộc

Bắt đầu từ thời kỳ suy thoái của các lãnh chúa phong kiến thời Trung cổ, những khuôn khổ mới cho kinh tế ở tầm mức quốc gia bắt đầu được củng cố. Từ năm 1492 với những cuộc thám hiểm như của Christopher Columbus, những cơ hội thương mại mới mở ra với Tân thế giới và châu Á. Những nhà quân chủ hùng mạnh muốn tập trung quyền lực và củng cố sự thống nhất nhà nước để tăng cường quyền lãnh đạo của họ. Chủ nghĩa trọng thương trở thành một phong trào chính trị và một học thuyết kinh tế ủng hộ việc sử dụng sức mạnh quân sự của nhà nước để giành giật các thị trường và bảo vệ những nguồn tài nguyên cướp bóc được.

Những người trọng thương tin rằng thương mại quốc tế là những giao dịch có tổng bằng không. Vì tiền bạc và vàng là những nguồn duy nhất cho sự giàu có và số lượng tài nguyên có thể chia sẻ giữa các quốc gia là giới hạn. Cho nên, các loại thuế được sử dụng để khuyến khích xuất khẩu (có nghĩa là mang về nhiều tiền bạc hơn cho đất nước) và hạn chế nhập khẩu (tức là chi tiêu ra nước ngoài). Nói cách khác, phải luôn duy trì thặng dư trong cán cân thương mại. Thực ra, khái niệm chủ nghĩa trọng thương chỉ bắt đầu được sử dụng với các nghĩa đầy đủ nói trên từ cuối năm 1763 bởi Victor de Riqueti, marquis de Mirabeau, và trở nên phổ biến nhờ Adam Smith, người quyết liệt chống lại những ý tưởng của chủ nghĩa trọng thương.

Thomas Mun

Doanh nhân người Anh Thomas Mun (1571-1641) đại diện cho chính sách trọng thương thời kỳ đầu qua cuốn sách của ông, England's Treasure by Foraign Trade (Ngân khố của nước Anh qua thương mại với nước ngoài). Dù tới năm 1664 nó mới được xuất bản, cuốn sách đã được phổ biến rộng dưới dạng bản thảo trước đó. Mun là một thành viên của Công ty Đông Ấn Anh và đã trình bày về những trải nghiệm của ông trong cuốn A Discourse of Trade from England unto the East Indies (1621, Ghi chép về thương mại từ Anh tới Đông Ấn).

Theo Mun, thương mại là cách duy nhất để tăng ngân khố cho nước Anh (tức là sự giàu có của quốc gia) và để theo đuổi điều đó, ông đề xuất một số phương án hành động. Nhập khẩu cần phải tính toán kỹ để tăng lượng hàng hóa có thể xuất khẩu, tăng việc sử dụng đất đai và các tài nguyên thiên nhiên khác để giảm bớt nhu cầu nhập khẩu, giảm thuế xuất khẩu đánh vào các hàng hóa sản xuất nội địa từ nguyên vật liệu nước ngoài, và xuất khẩu những hàng hóa có cầu không co giãn vì có thể thu được nhiều tiền hơn với mức giá cao hơn.

Philipp von Hörnigk

Philipp von Hörnigk (1640-1712, đôi khi có họ là Hornick hoặc Horneck) sinh ở Frankfurt am Main và trở thành nhân viên nhà nước ở Áo vào giai đoạn đất nước ông bị đe dọa liên tục bởi những cuộc xâm lăng của Đế chế Ottoman. Trong tác phẩm Österreich Über Alles, Wann es Nur Will (1684, Nước Áo trên tất cả, nếu muốn) ông đã nêu ra những tuyên bố rõ ràng về chính sách trọng thương. Ông liệt kê chín nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế quốc gia.

Một, xử lý vấn đề đất đai canh tác của quốc gia với sự thận trọng tối đa, không để trống bất cứ khoảnh đất nào có thể canh tác. Hai, tất cả hàng hóa trong một quốc gia không thể sử dụng ở dạng thô cần phải được sản xuất bên trong quốc gia. Ba, cần chú ý tới vấn đề dân số, để dân không tăng quá mức mà đất nước có thể đáp ứng. Bốn, vàng và bạc không bao giờ được rời quốc gia trong bất cứ tình huống nào. Năm, người dân bản địa phải luôn sử dụng hàng hóa quốc nội. Sáu, hàng hóa nước ngoài phải được mua không phải bằng vàng hay bạc, mà bằng đổi hàng lấy hàng. Bảy, hàng hóa nhập khẩu phải được nhập ở dạng nguyên liệu thô, và chế tạo trong nước. Tám, phải ngày đêm tận dụng các cơ hội bán những hàng hóa dư thừa trong nước sản xuất được ra nước ngoài, dưới dạng hàng hóa chế tạo. Và chín, không cho phép nhập khẩu trong bất cứ tình huống nào mà nguồn cung trong nước có thể đáp ứng.

Chủ nghĩa dân tộc, tinh thần tự cung tự cấp và quyền lực nhà nước là những nguyên tắc cơ bản được đề xuất từ những người theo chủ nghĩa trọng thương.

Jean-Baptiste Colbert

Jean-Baptiste Colbert (1619-1683) là Bộ trưởng tài chính dưới thời vua Louis XIV của Pháp. Ông đã lập nên phường hội cho các ngành công nghiệp lớn. Lụa, vải sợi, thảm, đồ nội thất và rượu là những mặt hàng mà nước Pháp chuyên sản xuất, tất cả những nhà sản xuất các mặt hàng này phải gia nhập phường hội để thúc đẩy xuất khẩu. Điều này tồn tại cho tới cuộc Cách mạng Pháp. Theo Colbert "đơn giản, và chỉ có, tiền bạc dồi dào tạo ra sự khác biệt trong sức mạnh giữa các nhà nước".

Thời kỳ khai sáng ở Anh

Nước Anh đã trải qua thời kỳ bất ổn nhất vào thế kỷ 17 với những chia rẽ về chính trị và tôn giáo như cuộc nội chiến Anh, việc xử tử vua Charles I và nền độc tài của Cromwell, chưa kể dịch hạch và những trận hỏa hoạn. Nền quân chủ được khôi phục dưới thời Charles II, người có cảm tình với Công giáo La Mã, nhưng người kế vị của ông James II lại nhanh chóng bị lật đổ. Được mời vào thay thế là William của Orange theo Tin lành và nữ hoàng Mary II, người đã phê chuẩn Đạo luật về các quyền 1689 đảm bảo quốc hội chiếm ưu thế trên chính trường trong cuộc Cách mạng Vinh Quang. Chính sách mới đã chứng kiến những tiến bộ khoa học lớn, bao gồm việc Robert Boyle phát minh ra định luật Boyle-Mariotte (1660) và Sir Isaac Newton xuất bản tác phẩm Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên (1687) mô tả ba định luật cơ bản về chuyển động và định luật vạn vật hấp dẫn. Tất cả những nhân tố này góp phần vào thúc đẩy tư tưởng kinh tế. Chẳng hạn, Richard Cantillon (1689-1734) đã sao chép những ý tưởng của Newton về các lực và trọng lực trong tự nhiên sang cho con người và cạnh tranh thị trường trong kinh tế. Trong tác phẩm Essay on the Nature of Commerce in General (Tiểu luận về bản chất của thương mại tổng quát), ông lập luận rằng tư lợi duy lý trong một hệ thống thị trường tự do sẽ dẫn tới giá cả phù hợp và có trật tự. Không như những người theo chủ nghĩa trọng thương, ông lập luận rằng sự giàu có không phải có nguồn gốc từ thương mại, mà từ lao động. Người đầu tiên đưa những ý tưởng này vào một khung phân tích chính trị là John Locke.

John Locke

phải|nhỏ|[[John Locke.]]

John Locke (1632–1704) sinh gần Bristol và theo học ở London và Oxford. Ông được coi là một trong những nhà triết học quan trọng nhất của thời kỳ này vì việc phát triển học thuyết về khế ước xã hội và những phê bình của ông với Thomas Hobbes, người bảo vệ sự chuyên quyền của nhà nước trong tác phẩm Leviathan. Locke tin rằng người dân có hợp đồng với nhà nước trong một xã hội về việc bảo vệ các quyền tài sản của họ. Ông xác định tài sản với khái niệm rộng, bao gồm cả sinh mạng và các quyền tự do của con người, cũng như của cải của họ. Khi con người kết hợp lao động với tài sản, thì quyền tài sản hình thành. Trong tác phẩm Second Treatise on Civil Government (1689, Tiểu luận thứ hai về chính quyền dân sự), ông viết

Locke lập luận rằng chính quyền không chỉ không được phép can thiệp vào tài sản của người dân (tức sinh mạng, quyền tự do và của cải của họ) mà còn phải tích cực bảo vệ cho người dân. Quan điểm về giá và tiền tệ của ông được trình bày trong bức thư gửi cho một thành viên nghị viện năm 1691 với tựa đề Some Considerations on the Consequences of the Lowering of Interest and the Raising of the Value of Money (1691, Một số đánh giá về hậu quả của việc giảm lãi suất và tăng giá trị đồng tiền). Locke lập luận rằng giá của một hàng hóa tăng hay giảm, phụ thuộc vào tỉ lệ số người mua và số người bán.

Dudley North

nhỏ|[[Dudley North (economist)|Dudley North]] Dudley North (1641–1691) là một thương nhân và chủ đất giàu có. Ông làm quan chức trong Bộ tài chính Anh và phản đối lại hầu hết các chính sách của trường phái trọng thương. Trong Discourses upon trade (1691, Tiểu luận về thương mại), được ông xuất bản nặc danh, North lập luận rằng đòi hỏi có cán cân thương mại có lợi là sai. Thương mại, theo lập luận của ông, có lợi cho cả hai bên, tăng cường chuyên biệt hóa, phân công lao động trong sản xuất và làm tăng sự giàu có cho tất cả mọi người. Quy định về thương mại can thiệp vào thương mại tự do do đó sẽ làm giảm sự giàu có chung.

David Hume

David Hume (1711–1776) đồng ý với lý thuyết của North và bác bỏ những giả thuyết của chủ nghĩa trọng thương. Những đóng góp của ông được nêu lên trong Political Discourses (1752, Tiểu luận chính trị học), sau đó được củng cố thêm trong Essays, Moral, Political, Literary (1777, Những bài luận, đạo đức, chính trị, văn học). Hume cho rằng đòi hỏi về cán cân thương mại không chỉ là sai, mà còn là không thể trong bất cứ trường hợp nào. Hume cho rằng bất cứ thặng dư từ xuất khẩu nào cũng sẽ phải đổi lại bằng việc nhập khẩu vàng và bạc. Điều này chỉ làm tăng cung tiền và khiến giá cả trong nền kinh tế tăng lên. Khi giá cả trong nền kinh tế tăng lên, đến lượt nó làm giảm xuất khẩu cho tới khi tình trạng cân bằng với nhập khẩu được tái lập.

Trường phái trọng nông

nhỏ|phải|[[Pierre Samuel du Pont de Nemours, một nhân vật lớn của trường phái trọng nông, di cư sang Mỹ và con trai ông đã thành lập hãng DuPont, hãng hóa chất lớn thứ hai thế giới.]] Cũng bất đồng với quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, một người Pháp tên là Vincent de Gournay (1712–1759) đã trở nên nổi tiếng khi đặt câu hỏi tại sao lại khó đạt được thương mại tự do như thế. Ông là một trong những người đầu tiên của chủ nghĩa trọng nông trong kinh tế. Trường phái này coi nông nghiệp là nguồn gốc của sự giàu có. Sử gia David B. Danbom viết rằng những người trọng nông "thù ghét các thành pố vì sự nhân tạo của chúng và ca ngợi đời sống tự nhiên. Họ ngưỡng mộ những nông dân." Vào cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, những tiến bộ lớn diễn ra trong khoa học tự nhiên và giải phẫu học, bao gồm việc phát hiện ra vòng tuần hoàn máu trong cơ thể người. Khái niệm này được những người theo chủ nghĩa trọng thương áp dụng, với đề xuất của họ về "dòng tuần hoàn thu nhập" chảy qua nền kinh tế.

François Quesnay (1694–1774) là ngự y của vua Louis XV của Pháp. Ông tin rằng thương mại và công nghiệp không phải là nguồn gốc cho sự giàu có, và trong cuốn sách của ông, Tableau économique (1758, Cái bàn kinh tế), Quesnay lập luận rằng thặng dư trong nông nghiệp, chảy vào nền kinh tế dưới hình thức tiền thuê, tiền lương và thương mại nông nghiệp, là động lực đích thực của nền kinh tế. Vì vậy, Quesnay lập luận, trước hết luật lệ làm cản trở dòng chảy thu nhập qua tất cả các giai cấp trong xã hội, do đó làm cản trở phát triển kinh tế. Thứ hai, thuế đánh vào các giai cấp sản xuất, như nông dân, phải giảm xuống, mà phải tăng thuế vào những tầng lớp không sản xuất, như chủ đất, vì cuộc sống xa hoa của họ bóp méo dòng chảy thu nhập. David Ricardo sau này chứng minh rằng thuế đánh vào đất thực chất là đánh vào chính những người tá điền, trong tác phẩm của ông Law of Rent (1809).

Jacques Turgot (1727–1781) sinh ở Paris trong một gia đình Norman. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Réflexions sur la formation et la distribution des richesses (1766, Những suy nghĩ về sự hình thành và phân bố của cải) phát triển học thuyết của Quesnay cho rằng đất đai là nguồn gốc của sự giàu có. Turgot chia xã hội thành ba giai cấp: giai cấp sản xuất nông nghiệp, giai cấp ăn lương và giai cấp sở hữu đất. Ông lập luận rằng chỉ nên đánh thuế dựa trên sản phẩm làm từ đất đai và ủng hộ tự do hoàn toàn cho thương mại cũng như công nghiệp.

Tháng 8 năm 1774, Turgot được bổ nhiệm làm bộ trưởng tài chính và trong hai năm ông đã tiến hành nhiều biện pháp chống lại các quan điểm trọng thương và quan điểm phong kiến được nhà vua ủng hộ. Trong một tuyên bố về những nguyên tắc làm việc của ông, được gửi cho nhà vua, Turgot nêu luận điểm ba không: "không để nhà nước phá sản, không tăng thuế, không vay mượn." Ước muốn cuối cùng của Turgot là chỉ đánh duy nhất một loại thuế lên đất và bỏ các loại thuế gián thu khác, nhưng các biện pháp của ông gặp phải sự chống đối quyết liệt từ những người sở hữu đất. Hai sắc lệnh, một yêu cầu giảm số tiền tô tá điền phải nộp cho chủ đất (thường là quý tộc) và một loại bỏ các đặc quyền của những phường hội, đặc biệt gặp phải sự chống đối mạnh mẽ. Ông buộc phải từ chức năm 1776.

Adam Smith và Sự giàu có của các quốc gia

nhỏ|phải|Adam Smith, cha đẻ của kinh tế chính trị học hiện đại.

Adam Smith (1723–1790) được thừa nhận rộng rãi là cha đẻ của kinh tế chính trị học hiện đại. Việc xuất bản tác phẩm Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia (hay Sự giàu có của các quốc gia) năm 1776 trùng hợp không chỉ với cuộc Cách mạng Mỹ, không lâu trước những biến động rộng khắp ở châu Âu do cuộc Cách mạng Pháp, mà còn vào bình minh của cuộc Cách mạng công nghiệp giúp tạo ra của cải ở quy mô lớn hơn bất cứ khi nào trước đó. Smith vốn là một nhà triết học luân lý người Scotland. Cuốn sách đầu tiên xuất bản của ông là The Theory of Moral Sentiments (1759, Học thuyết về những cảm xúc luân lý). Ông lập luận rằng những hệ thống đạo đức do con người phát triển nên thông qua các mối quan hệ cá nhân với những cá nhân khác, và chuyện đúng sai được phân biệt thông qua phản ứng của những người khác với hành vi của một cá nhân. Ban đầu, cuốn sách này giúp Smith nhận được nhiều sự chú ý hơn hẳn tác phẩm thứ hai của ông, Sự giàu có của các quốc gia, vốn bị dư luận hoàn toàn phớt lờ. Nhưng kiệt tác của Smith vẫn rất thành công với những người quan tâm đến nó.

Bối cảnh

William Pitt, Thủ tướng Anh của Đảng Bảo thủ vào cuối những năm 1870 ban hành các đề xuất thuế dựa trên những ý tưởng của Smith và ủng hộ thương mại tự do như một môn đồ nhiệt thành của tác phẩm Sự giàu có của các quốc gia. Smith được bổ nhiệm làm cao ủy về hải quan của Anh quốc và trong 20 năm, ông đã có cả một thế hệ mới những tác giả đi sau với ý định xây dựng một ngành khoa học riêng cho kinh tế chính trị. trong đó nỗ lực cá nhân giúp tạo ra hàng hóa cho xã hội. Smith tin rằng những người ích kỷ trong xã hội cũng sẽ bị kềm chế và làm việc vì điều tốt trong một thị trường cạnh tranh. Giá cả thường không đại diện cho giá trị của hàng hóa hay dịch vụ. Theo bước John Locke, Smith cho rằng giá trị thật của mọi thứ nằm trong hàm lượng lao động được đầu tư vào đó.

Khi người hàng thịt, người nấu bia và người thợ làm bánh hành động dưới sự khống chế của một nền kinh tế thị trường tự do, họ sẽ theo đuổi tư lợi, Smith lập luận, nhưng đồng thời một cách nghịch lý, điều đó giúp cho việc định giá đúng giá trị những hàng hóa của họ. Lập luận của ông về cạnh tranh như sau.

Smith tin rằng một thị trường sẽ sinh ra điều mà ông gọi là sự giàu có gia tăng. Điều này bao gồm hàng loạt khái niệm, như sự phân công lao động là động lực cho hiệu quả kinh tế, nhưng nó bị giới hạn bởi quy mô của các thị trường. Cả phân công lao động và mở rộng thị trường đòi hỏi sự tích tụ tư bản lớn bởi những doanh nhân và những nhà lãnh đạo kinh doanh và công nghiệp. Toàn bộ hệ thống dựa trên nền tảng duy trì sự đảm bảo với quyền tư hữu về tài sản.

Những hạn chế

nhỏ|Trang bìa cuốn Sự giàu có của các quốc gia.

Tầm nhìn của Smith về nền kinh tế thị trường tự do, dựa trên quyền tư hữu tài sản được bảo đảm, tích tụ tư bản, mở rộng các thị trường và phân công lao động đối lập với xu hướng của những người trọng thương tìm cách quản lý tất cả những hành động xấu xa của con người.

Thứ ba, Smith chỉ trích nhà nước ủng hộ bất cứ hình thức độc quyền nào, vì độc quyền luôn dẫn tới việc bòn rút của người mua với mức giá cao nhất. Sự tồn tại của độc quyền và nguy cơ xuất hiện các cartel, sau này sẽ là trọng tâm của chính sách về luật cạnh tranh, có thể phá hoại những lợi ích của thị trường tự do vì lợi ích của các doanh nghiệp với cái giá phải trả thuộc về người tiêu dùng.

Kinh tế chính trị cổ điển

Những nhà kinh tế cổ điển được nhắc tới như một tập hợp lần đầu tiên bởi Karl Marx. Điểm chung trong các học thuyết của họ là học thuyết giá trị lao động, đối lập với giá trị xuất phát từ một sự cân bằng giữa cung và cầu. Những nhà kinh tế này trước hết đã chứng kiến sự chuyển đổi kinh tế xã hội do cuộc Cách mạng công nghiệp: sự giảm dân số ở nông thôn, bất ổn, nghèo đói, sự xuất hiện của giai cấp công nhân.

Họ đặt câu hỏi về gia tăng dân số, vì những chuyển dịch nhân khẩu đã bắt đầu ở Anh vào thời đó. Họ cũng nêu ra những câu hỏi mang tính nền tảng, về nguồn gốc của giá trị hàng hóa, những nguyên nhân dẫn tới tăng trưởng kinh tế và vai trò của tiền trong nền kinh tế. Họ ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do, lập luận rằng đó là một hệ thống tự nhiên dựa trên sự tự do và quyền sở hữu tài sản. Tuy nhiên, những nhà kinh tế học cổ điển chia rẽ và không tạo thành một dòng tư tưởng thống nhất.

Một học thuyết đáng chú ý trong kinh tế học cổ điển là học thuyết về tiêu dùng dưới mức, được trường phái Birmingham và Thomas Malthus phát triển vào đầu thế kỷ 19. Những người thuộc trường phái này lập luận rằng chính quyền phải hành động để giảm bớt tình trạng thất nghiệp và suy thoái kinh tế, họ là những người tiền bối về học thuật của kinh tế học Keynes sau này vào những năm 1930. Một trường phái đáng chú ý khác là chủ nghĩa tư bản Manchester, trường phái muốn thúc đẩy thương mại tự do, chống lại học thuyết của chủ nghĩa trọng thương trước đó.

Jeremy Bentham

[[Jeremy Bentham.]]

Jeremy Bentham (1748–1832) có lẽ là nhà tư tưởng cấp tiến nhất ở thời đại của ông và là người phát triển khái niệm về chủ nghĩa công lợi. Bentham là một người vô thần, một nhà cải cách với các trại giam, người hoạt động vì quyền động vật, tin tưởng ở bầu cử phổ thông, tự do ngôn luận, thương mại tự do và bảo hiểm y tế ở một thời đại mà rất ít người dám bảo vệ những giá trị đó. Ông đi học từ rất sớm, hoàn tất đại học và bắt đầu hành nghề luật sư từ năm 18 tuổi. Cuốn sách đầu tiên của ông, A Fragment on Government (1776, Một mảnh về chính quyền) được xuất bản nặc danh là một sự phê bình đanh thép với tác phẩm Commentaries of the laws of England (Những bình luận về luật pháp nước Anh) của William Blackstone trước đó. Cuốn sách thành công lớn cho tới khi bị phát hiện là của Bentham trẻ tuổi, chứ không phải của một giáo sư tiếng tăm như lời đồn. Trong tác phẩm The Principles of Morals and Legislation (1791, Những nguyên lý của đạo đức và pháp lý), Bentham đã vạch ra học thuyết của ông về chủ nghĩa công lợi.

Mục tiêu của pháp luật phải là làm giảm sự khổ đau và chịu đựng trong khi tạo ra hạnh phúc lớn nhất cho đa số lớn nhất. Bentham thậm chí thiết kế một phương pháp luận toàn diện cho việc tính toán tổng hạnh phúc xã hội mà một đạo luật có thể tạo ra, một felicific calculus, hay phép tính hạnh phúc. Xã hội, theo Bentham, không gì khác hơn là tổng cộng của các cá nhân, nên nếu nhắm vào việc tạo ra sự tốt đẹp cho xã hội, thì phải đảm bảo tạo ra nhiều sự hài lòng hơn là nỗi đau, dù cho số lượng cá nhân là bao nhiêu.

Chẳng hạn, một đạo luật đề xuất mọi xe buýt trong thành phố có lối lên xuống cho xe lăn, nhưng sẽ làm chậm tốc độ di chuyển của xe buýt. Hàng triệu người đi xe buýt do đó sẽ phải chịu sự phiền toái nhỏ (hay nỗi đau) vì mất thêm thời gian cho giao thông và đi lại, nhưng một số nhỏ những người sử dụng xe lăn sẽ nhận được sự hài lòng lớn vì có thể sử dụng phương tiện công cộng, sự hài lòng lớn này giá trị hơn tổng cộng sự phiền toái của những người dùng khác.

So sánh về mức độ hạnh phúc của các cá nhân là điều Bentham tin có thể làm được, ý tưởng là sự hài lòng lớn cho một người có thể ý nghĩa hơn phiền toái nhỏ cho nhiều người. Nhưng học thuyết của ông sau này bị chỉ trích vì liệu sự tính toán hạnh phúc có cho phép một nhà độc tài hạnh phúc lớn dựa trên sự đau khổ của số đông? Ngoài ra, bất chấp phương pháp luận của Bentham, hạnh phúc vẫn là điều rất khó cân đong đo đếm.

Jean-Baptiste Say

nhỏ|[[Nguyên lý Say, cho rằng cung luôn bằng với cầu, không bị thách thức cho tới thế kỷ 20.]] Jean-Baptiste Say (1767–1832) là một người Pháp sinh ở Lyon. Ông đã giúp phổ biến tác phẩm của Adam Smith ở Pháp. Cuốn sách của ông A Treatise on Political Economy (1803, Một chuyên luận về kinh tế chính trị) bao gồm một đoạn văn ngắn sau này trở thành giáo lý cho kinh tế chính trị học tới tận cuộc Đại khủng hoảng và được biết đến là Nguyên lý Say về các thị trường. Say cho rằng không bao giờ có sự thiếu hụt lượng cầu hay tình trạng dư thừa hàng hóa trong nền kinh tế. Theo Say, mọi người sản xuất ra hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của chính họ, chứ không phải của người khác. Sản xuất vì vậy không phải là vấn đề về phía cung, mà là chỉ dấu của những người sản xuất muốn có hàng hóa.

Say đồng ý rằng một phần thu nhập được các hộ gia đình tiết kiệm, nhưng trong dài hạn, tiết kiệm được đầu tư. Đầu tư và tiêu dùng do đó là hai nhân tố của cầu, nên sản xuất tức là cầu, nên không thể có chuyện sản xuất vượt qua mức cầu, hay nhìn chung là sẽ không có chuyện dư cung. Say lập luận tiền bạc là trung tính, vì vai trò duy nhất của nó là làm công cụ cho trao đổi, vì vậy, mọi người muốn tiền chỉ để mua hàng hóa. Say cho rằng "tiền là một thứ che đậy bên ngoài".

Tổng kết hai ý tưởng đó, Say cho rằng "hàng hóa được dùng để đổi hàng hóa". Cùng lắm thì sẽ có những lĩnh vực kinh tế khác nhau trong đó cầu không được đáp ứng. Nhưng qua thời gian cung sẽ chuyển dịch, các doanh nghiệp sẽ điều chỉnh sản xuất và thị trường sẽ tự điều chỉnh. Một ví dụ của tình trạng thừa cung là thất nghiệp, nói cách khác, có quá nhiều cung người lao động, và quá ít việc làm. Nguyên lý Say nói điều đó đồng nghĩa với việc có tình trạng mức cầu cho các sản phẩm khác vượt quá mức cân bằng và thị trường sẽ tự điều chỉnh.

Như vậy, tiền đề của nguyên lý này là giá cả hàng hóa sẽ được điều chỉnh nếu lượng cung và lượng cầu hàng hóa không cân bằng. Nếu lượng cung vượt quá lượng cầu (dư cung), thì nhất định giá cả hàng hóa sẽ giảm. Lượng cầu hàng hóa nhờ thế sẽ tăng lên, khiến cho lượng cung và lượng cầu trở nên cân bằng. Từ đó suy ra, để nền kinh tế quốc gia có thể trở nên giàu có hơn, thì chỉ cần đẩy mạnh sản xuất (tăng tổng cung).

Nguyên lý Say trở thành nền tảng cho lý thuyết kinh tế tới tận những năm 1930 và được dịch sang tiếng Anh lần đầu bởi James Mill. Sau đó nó nhận được sự ủng hộ từ David Ricardo, Henry Thornton và John Stuart Mill. Tuy nhiên, hai nhà kinh tế chính trị khác, Thomas Malthus và Sismondi tỏ ra không thật sự tin ở nguyên lý này.

Thomas Malthus

[[Thomas Malthus cảnh báo các nhà làm luật về các hệ quả của những chính sách giảm nghèo.]]

Thomas Malthus (1766–1834) là một bộ trưởng của Đảng bảo thủ trong Quốc hội Anh. Trái ngược với Jeremy Bentham, ông tin rằng chính quyền phải tránh xa các vấn đề của xã hội. Malthus dành chương cuối cuốn sách của ông Principles of Political Economy (1820, Các nguyên lý kinh tế chính trị) để phán bác Nguyên lý Say và tranh luận rằng nền kinh tế có thể trì trệ nếu không có được "mức cầu hiệu quả".

Nói cách khác, nếu tiền lương thấp hơn tổng chi phí sản xuất, thì tiền lương đó không thể mua hết các sản phẩm đầu ra của các ngành sản xuất, khiến giá cả giảm xuống. Giá giảm làm xói mòn động cơ đầu tư và vòng xoáy đó có thể cứ tiếp diễn không ngừng. Tuy nhiên, Malthus nổi tiếng hơn với tác phẩm trước đó của ông, An Essay on the Principle of Population (Tiểu luận về nguyên tắc của dân số). Tác phẩm này tranh luận sự can thiệp của nhà nước là không thể vì hai nguyên nhân. "Thực phẩm là cần thiết cho sự tồn tại của con người ", Malthus viết. "Cảm xúc và mong muốn truyền lại nòi giống giữa hai giới tính là cần thiết và sẽ được duy trì gần như ở tình trạng hiện tại", có nghĩa là "sức gia tăng dân số chắc chắn lớn hơn khả năng mà Trái Đất có thể cung cấp cho sự tồn tại của loài người."

Tuy nhiên, tình trạng gia tăng dân số được kiểm soát bởi các thiên họa và nhân họa. Tăng lương cho số đông có thể gây ra vấn đề tăng dân số, gây căng thẳng cho nguồn cung của Trái Đất và dẫn tới những thiên tai và nhân họa để điều chỉnh lại dân số như ban đầu.

David Ricardo

[[David Ricardo|Ricardo nổi tiếng với quy luật của lợi thế so sánh.]]

David Ricardo (1772–1823) sinh ở London. Năm 26 tuổi, ông đã là một nhà buôn chứng khoán giàu có và mua cho mình một ghế nghị sĩ ở Ireland để làm bước đệm bước vào Hạ viện Anh. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ricardo là Principles of Political Economy and Taxation (Những nguyên lý về kinh tế chính trị và thuế khóa). Tác phẩm bao gồm những chỉ trích của ông với các rào cản thương mại quốc tế và sự mô tả về cách thức phân phối thu nhập trong dân số. Ricardo phân biệt giữa người làm công ăn lương, những người nhận một mức lương cố định ở mức đủ để họ sống sót; với chủ đất, tức những người thu tô; và những nhà tư bản, những người nắm giữ vốn tư bản và tạo ra lợi nhuận, tức là phần thu nhập dôi dư ra của một xã hội.

Nếu dân số tăng, sẽ phải có thêm đất canh tác, những phần đất sẽ có độ màu mỡ kém hơn những vùng đất đã được canh tác rồi, vì quy luật sản lượng giảm dần. Do đó, chí phí sản xuất lúa mì sẽ tăng, và giá lúa mì sẽ tăng: Phần địa tô sẽ tăng, lương cũng sẽ phải điều chỉnh theo các mức tăng giá đó để cho phép người làm công sống sót được. Lợi nhuận vì thế giảm xuống, cho tới khi các nhà tư bản không thể đầu tư nữa. Vì vậy, Ricardo kết luận nền kinh tế sẽ hướng tới một tình trạng trì trệ.

Để can thiệp vào tình trạng trì trệ này, Ricardo ủng hộ thúc đẩy thương mại quốc tế để nhập khẩu lúa mì ở giá thấp để đối phó với các chủ đất muốn tăng địa tô. Các đạo luật về ngũ cốc ở Anh được thông qua năm 1815 thiết lập nên hệ thống thế khóa hết sức phiền phức nhằm ổn định giá lúa mì ở thị trường trong nước. Ricardo tranh luận rằng tăng thuế nhập khẩu, dù với mục tiêu tưởng chừng là vì lợi ích của người nông dân trong nước, chỉ khiến giá cả tăng lên, và phần đó sẽ trở thành địa tô rơi vào túi các chủ đất, chứ người nông dân thực chất không được hưởng gì.

Hơn nữa, thêm lao động được tuyển dụng trong ngành sản xuất lúa mì đồng nghĩa với việc làm tăng chi phí lương ở các ngành khác và do đó làm giảm xuất khẩu và lợi nhuận từ các ngành xuất khẩu. Kinh tế học với Ricardo là mối quan hệ giữa "ba nhân tố sản xuất": đất đai, lao động và vốn. Ricardo sử dụng toán học để thuyết minh rằng lợi ích từ thương mại có thể lớn hơn những lợi ích của chính sách bảo hộ. Ý tưởng về lợi thế so sánh cho rằng ngay cả nếu một nước bị bất lợi trong việc sản xuất ra các hàng hóa so với một nước khác, nước đó vẫn có thể hưởng lợi từ việc mở cửa biên giới vì dòng hàng hóa vào được sản xuất rẻ hơn so với sản xuất ở trong nước, tạo ra lợi ích cho người tiêu dùng trong nước. Theo Ricardo, khái niệm này sẽ dẫn tới chuyển dịch về giá cả, dần dần cho phép nước Anh sản xuất những hàng hóa mà nước này có lợi thể so sánh cao nhất.

John Stuart Mill

nhỏ|[[John Stuart Mill chịu ảnh hưởng từ Jeremy Bentham và là tác giả của sách giáo khoa kinh tế học phổ biến nhất ở thời của ông.]] John Stuart Mill (1806–1873) là một nhân vật hàng đầu trong dòng tư duy kinh tế chính trị ở thời của ông. Ông là nghị sĩ Anh đại diện khu vực Westminster và còn là một triết gia chính trị hàng đầu. Từ nhỏ Mill đã có tố chất thiên tài. Ông đọc triết học Hy Lạp cổ đại lúc ba tuổi và theo đuổi sự nghiệp học hành rất tích cực nhờ người cha James Mill. Jeremy Bentham là thầy dạy của ông và là một người bạn của gia đình. Mill còn chịu ảnh hưởng lớn từ David Ricardo. Cuốn đầu tiên trong bộ sách giáo khoa của Mill, in năm 1848 với tựa đề Principles of Political Economy (Những nguyên lý kinh tế chính trị) là một tác phẩm tổng kết các tri thức về kinh tế của giai đoạn giữa thế kỷ 19.

Principles of Political Economy được sử dụng làm sách giáo khoa cơ bản trong hầu hết các trường đại học cho tới đầu thế kỷ 20. Về vấn đề tăng trưởng kinh tế, Mill tìm kiếm một lập trường trung lập giữa quan điểm của Adam Smith về việc mở rộng các cơ hội cho thương mại và sáng tạo công nghệ với quan điểm của Thomas Malthus về những giới hạn của gia tăng dân số. Trong cuốn sách thứ tư, Mill vạch ra một số viễn cảnh tương lai, thay vì dự đoán riêng một kết cục nào đó. Kịch bản thứ nhất theo thuyết Malthus cho rằng dân số tăng nhanh hơn khả năng cung cấp của Trái Đất, dẫn tới lương giảm và lợi nhuận tăng.

Kịch bản thứ hai, theo Smith, vốn tư bản được tích tụ nhanh hơn mức tăng danh số nên tiền lương thực tế sẽ tăng. Kịch bản thứ ba phản ánh quan điểm của Ricardo, rằng nếu tích tụ tư bản và dân số tăng cùng mức, công nghệ ổn định, sẽ không có thay đổi nào trong tiền lương thực tế vì cung và cầu cho lao động sẽ vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, dân số gia tăng sẽ cần sử dụng đất nhiều hơn, tăng chi phí sản xuất lương thực và do đó làm giảm lợi nhuận. Kịch bản thứ tư là công nghệ tiến bộ nhanh hơn so với tích tụ tư bản và mức tăng dân số.

Kết quả sẽ là một nền kinh tế thịnh vượng. Mill cho rằng kịch bản thứ ba là dễ xảy ra nhất, và ông giả định tiến bộ công nghệ đến mức nào đó sẽ phải kết thúc. Nhưng về triển vọng tăng trưởng kinh tế, Mill ít đề cập rõ ràng hơn.

Mill cũng được ghi nhận là người đầu tiên nói về cung và cầu như một mối quan hệ chứ không chỉ là số lượng hàng hóa trên thị trường, khái niệm về chi phí cơ hội và phản bác lại học thuyết về quan hệ giữa tiền lương và tư bản trong tương quan với dân số.

Chủ nghĩa tư bản và Marx

trái|nhỏ|Karl Marx đưa ra những phê bình trọng yếu với kinh tế học cổ điển dựa trên [[học thuyết giá trị lao động.]] Giống như cụm từ "chủ nghĩa trọng thương" chỉ trở nên nổi tiếng bởi những người chỉ trích nó, như Adam Smith, cụm từ "chủ nghĩa tư bản" được sử dụng bởi những người chỉ trích, đáng kể nhất là Karl Marx. Karl Marx (1818–1883) đã là, và trên nhiều phương diện vẫn đang là nhà kinh tế học trụ cột của kinh tế học xã hội chủ nghĩa. Sự kết hợp học thuyết chính trị của ông, được trình bày trong Tuyên ngôn Cộng sản và chủ nghĩa duy vật biện chứng được tạo cảm hứng từ Friedrich Hegel mang tới những phê bình mang tính cách mạng với chủ nghĩa tư bản theo đánh giá của Marx trong thế kỷ 19. Phong trào xã hội chủ nghĩa mà ông tham gia xuất hiện như lời đáp lại tình trạng cùng khổ của người công nhân trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa và kinh tế học cổ điển đi kèm với cuộc cách mạng công nghiệp đó. Marx viết kiệt tác Tư bản luận tại thư viện của Bảo tàng quốc gia Anh.

Bối cảnh

nhỏ|phải|Cùng với Marx, [[Friedrich Engels là đồng tác giả Tuyên ngôn cộng sản và tập hai của Tư bản luận.]] Robert Owen (1771–1858) là nhà công nghiệp đầu tiên quyết tâm cải thiện điều kiện sống của người công nhân. Ông mua các nhà máy dệt ở New Lanark, Scotland, nơi ông cấm trẻ em dưới 10 tuổi làm việc, ấn định thời gian làm việc từ 6 giờ sáng tới 7 giờ tối và cung cấp các lớp học ban đêm cho trẻ em khi các em làm xong việc. Những biện pháp nhỏ giọt đó vẫn giúp cải thiện đáng kể đời sống người lao động và việc kinh doanh của ông phát đạt nhờ năng suất cao hơn, dù tiền lương ông trả thấp hơn mức trung bình trên cả nước lúc đó. Ông trình bày nhãn quan của mình trong tác phẩm The New View of Society (1816, Quan điểm mới về xã hội) trong giai đoạn thông qua đạo luật về nhà máy ở đảo Anh, nhưng rốt cuộc nỗ lực xây dựng một cộng đồng utopia (xã hội tốt đẹp không tưởng) mới của ông ở New Harmony, Indiana kết thúc trong thất bại.

Một trong những người khác có ảnh hưởng lớn tới Marx là nhà xã hội chủ nghĩa/vô chính phủ người Pháp Pierre-Joseph Proudhon. Phê phán gay gắt chủ nghĩa tư bản và muốn thay thế bằng liên đoàn các công nhân lao động, nhưng Proudhon cũng phản đối những nhà xã hội chủ nghĩa đương thời muốn tập trung hóa các hiệp hội do nhà nước điều hành. Trong tác phẩm Hệ thống của những mâu thuẫn kinh tế (1846), Proudhon chỉ trích nhiều mặt của chủ nghĩa tư bản, phân tích các tác động trái ngược của việc cơ giới hóa, cạnh tranh, quyền tư hữu tài sản, độc quyền và các khía cạnh khác của nền kinh tế. Thay vì chủ nghĩa tư bản, ông muốn một hệ thống cùng có lợi "dựa trên sự bình đẳng, nói cách khác, sự tổ chức của lao động trong đó vô hiệu hóa kinh tế chính trị và chấm dứt quyền tư hữu." Trong cuốn sách Quyền tư hữu là gì? (1840), ông lập luận rằng quyền tư hữu chẳng khác gì hành vi ăn cắp, một quan điểm khác với kinh tế gia cổ điển John Stuart Mill, người cho rằng "đánh thuế mới là ăn cáp ". Tuy nhiên, vào cuối đời, Proudhon thay đổi một số quan điểm trước kia của ông. Trong tác phẩm được xuất bản sau khi đã qua đời Học thuyết về quyền tư hữu, ông lập luận rằng "quyền tư hữu là quyền lực duy nhất có thể trở thành đối trọng với quyền lực nhà nước."

Friedrich Engels, một tác giả có tư duy cấp tiến, đã xuất bản cuốn sách với nhan đề Tình cảnh giai cấp công nhân Anh năm 1844 mô tả địa vị của người lao động làm công ăn lương "là số phận bi đát nhất không thể che giấu trong những đau khổ của đời sống xã hội thời đại chúng ta." Sau khi Marx qua đời, Engels là người hoàn tất tập hai cuốn Tư bản luận từ những ghi chú của Marx.

Tư bản luận

nhỏ|trái|Trang bìa lần in thứ nhất của cuốn Tư bản luận bằng [[tiếng Đức.]]

Karl Marx bắt đầu cuốn Tư bản luận với khái niệm về hàng hóa.Trước các xã hội tư bản chủ nghĩa, theo Marx, là hình thái sản xuất dựa trên lao động nô lệ (chẳng hạn như ở xã hội La Mã cổ đại) trước khi chuyển sang chế độ nông nô phong kiến (chẳng hạn như châu Âu Trung cổ). Khi xã hội tiến bộ hơn, các mối quan hệ kinh tế lỏng lẻo hơn, nhưng dòng chảy lao động dễ dàng hơn cũng dẫn tới tình trạng bất ổn và đời sống khó khăn cho người lao động, tạo những điều kiện cho cách mạng. Mọi người mua và bán sức lao động giống như cách họ mua hàng hóa và dịch vụ. Con người do đó cũng là một thứ hàng hóa thông qua sức lao động, như ông viết trong Tuyên ngôn Cộng sản,

Cũng từ trang đầu của cuốn Tư bản luận,

Cách sử dụng từ "hàng hóa" của Marx gắn với cuộc tranh luận siêu hình học về bản chất của cải vật chất, làm sao để đạt được của cải và nên sử dụng của cải như thế nào. Khái niệm một hàng hóa đối lập với khái niệm về sự vật trong thế giới tự nhiên. Khi một người sử dụng lao động đối với một sự vật, nó trở thành "hàng hóa". Trong thế giới tự nhiên có cây cối, kim cương, quặng sắt và con người. Trong thế giới kinh tế học chúng trở thành bàn ghế, nhẫn, các nhà máy và người lao động. Tuy nhiên, theo Marx, hàng hóa có hai bản chất, hai giá trị. Ông phân biệt giá trị sử dụng với giá trị trao đổi của hàng hóa.

Giá trị sử dụng của hàng hóa có nguồn gốc từ hàm lượng lao động sản xuất ra nó, theo Marx, theo như các nhà kinh tế học cổ điển trong học thuyết giá trị lao động. Tuy nhiên, Marx không tin rằng lao động là nguồn gốc duy nhất của giá trị sử dụng của hàng hóa. Ông tin rằng giá trị có thể xuất phát từ các hàng hóa tự nhiên và định nghĩa lại giá trị sử dụng của hàng hóa là "thời gian lao động xã hội cần thiết" (thời gian mà người lao động cần để sản xuất ra hàng hóa). Hơn nữa, con người thường có khuynh hướng đánh giá cao giá trị của một số thứ, chẳng hạn vì sự sùng bái hàng hóa đối với kim cương, một mối quan hệ có tính áp bức đối với việc sản xuất hàng hóa này xuất hiện. Hai nhân tố này khiến cho giá trị sử dụng và giá trị trao đổi của hàng hóa là rất khác nhau. Một mối quan hệ áp bức, theo Marx, xuất hiện trong cả việc sử dụng và trao đổi lao động, trong những mặc cả về lượng lao động-tiền lương xuất phát từ thực tế là người chủ lao động trả cho người làm công của họ số tiền tương ứng với "giá trị trao đổi" thấp hơn nhiều so với "giá trị sử dụng" thực sự của sức lao động. Sự khác biệt này tạo ra lợi nhuận cho các nhà tư bản, hay theo thuật ngữ của Marx, giá trị thặng dư. Vì vậy, Marx tuyên bố, chủ nghĩa tư bản là một hệ thống bóc lộc.

nhỏ|phải|Marx giải thích cho tình trạng bùng nổ rồi suy thoái của nền kinh tế, như cuộc khủng hoảng 1873, là do tính bất ổn mãn tính trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Công trình của Marx làm thay đổi hoàn toàn học thuyết giá trị lao động mà các kinh tế gia cổ điển từng sử dụng. Sự châm biếm cay đắng của ông đi xa tới mức đặt câu hỏi về thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra chính lao động (tức là người lao động). Marx trả lời rằng giá trị này chỉ ở mức tối thiểu đủ để người lao động sống sót để tái tạo các kỹ năng cần thiết cho nền kinh tế. Người lao động do đó bị tách rời khỏi thành quả của sản xuất và các phương tiện để họ nhận ra tiềm năng thực sự của mình, vì họ ở vào vị thế bị áp bức trên thị trường lao động. Nhưng cùng lúc với tình trạng bóc lột và tách người lao động khỏi thành quả lao động của họ, mới có thể diễn ra sự tích lũy tư bản và tăng trưởng kinh tế. Người chủ lao động chịu sức ép cạnh tranh liên tục từ thị trường yêu cầu họ phải bóc lột lao động nhiều hơn, và những giới hạn trong việc đầu tư vào các công nghệ thay thế lao động giản đơn (như các dây chuyền robot). Điều này làm tăng lợi nhuận và thúc đẩy tăng trưởng, nhưng lợi nhuận rơi vào những người có quyền tư hữu về tư liệu sản xuất. Giai cấp lao động trong khi đó đối mặt với tình trạng bị bần cùng hóa liên tục vì bị tước đoạt các sản phẩm do lao động của họ làm ra, do bị tách rời với tư liệu sản xuất. Thêm vào đó là việc thất nghiệp vì sự xuất hiện của máy móc, họ trở thành đội quân thất nghiệp dự bị ngày càng tăng lên, gây ra áp lực giảm tiền lương và ngày càng nhiều người lao động tuyệt vọng sẽ nhận việc làm với mức lương thấp hơn. Nhưng điều này cũng làm giảm mức cầu vì sức mua sẽ giảm do tiền lương giảm, gây ra tình trạng khủng hoảng thừa, sản xuất sẽ bị cắt giảm, lợi nhuận giảm xuống cho tới khi tích lũy tư bản dừng lại vì một cuộc suy thoái kinh tế. Khi cuộc khủng hoảng thừa kết thúc, nền kinh tế lại bắt đầu tăng trưởng và bắt đầu chu kỳ bùng nổ tiếp theo. Với mỗi chu kỳ kinh tế như thế, đi kèm các cuộc khủng hoảng của kinh tế tư bản chủ nghĩa, theo Marx, xung đột về mặt giai cấp giữa các tầng lớp tư bản ngày càng giàu và người lao động ngày càng nghèo sẽ tăng lên. Hơn nữa, các công ty nhỏ bị các công ty lớn thôn tín trong các chu kỳ kinh doanh, và quyền lực kinh tế ngày càng tập trung vào một số ít người. Rốt cuộc, điều này sẽ dẫn tới một cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo để hình thành nên một xã hội không giai cấp. Marx không bao giờ đề cập đến việc quá trình này diễn ra ra sao. Đóng góp chính của ông không phải là việc một xã hội mới sẽ như thế nào, mà là sự phê bình với xã hội đương thời mà ông chứng kiến.

Sau Marx

Tập một cuốn Tư bản luận là phần duy nhất mà Marx tự ông xuất bản. Tập hai và ba được hoàn thành với sự giúp đỡ của Friedrich Engels và Karl Kautsky, một người bạn của Engels và cũng là người đóng góp chính cho việc xuất bản tập bốn.

Marx bắt đầu cho một truyền thống các nhà kinh tế học tập trung một cách tương xứng vào những vấn đề chính trị, ngoài vấn đề kinh tế. Cũng ở Đức, Rosa Luxemburg là một thành viên của Đảng Dân chủ Xã hội Đức, sau này trở thành thành viên Đảng Cộng sản Đức vì lập trường của đảng này trong chiến tranh thế giới thứ nhất. Beatrice Webb ở Anh cũng là một nhà xã hội chủ nghĩa đã góp phần xây dựng cả Trường Kinh tế London lẫn Hội Fabian.

Trào lưu tân cổ điển

Những năm 1860 xảy ra một cuộc cách mạng với kinh tế học. Các ý tưởng mới thuộc về trường phái học thuyết về cận biên. Cùng thời và viết độc lập với nhau, một người Pháp (Léon Walras), một người Áo (Carl Menger) và một người Anh (William Stanley Jevons) cùng phát triển học thuyết này, với một số dị bản. Thay vì giá cả hàng hóa và dịch vụ phản ánh lao động làm ra nó, giá cả phản ánh lợi ích cận biên của lần mua cuối cùng. Điều này có nghĩa là ở trạng thái cân bằng, sự ưa thích của người tiêu dùng với hàng hóa quyết định giá cả của nó, bao gồm một cách gián tiếp, giá của lao động.

Dòng tư duy này không thống nhất, và có ba trường phái chính độc lập với nhau. Trường phái Lausanne với hai đại diện chính là Walras và Vilfredo Pareto, phát triển các học thuyết về cân bằng tổng quát và hiệu quả Pareto. Tác phẩm chính của trường phái này là của Walras: Elements of Pure Economics (Những yếu tố của kinh tế học thuần túy). Trường phái Cambridge xuất hiện với tác phẩm cả Jevons: Theory of Political Economy (1871, Học thuyết kinh tế chính trị). Trường phái Anh này phát triển học thuyết về cân bằng từng phần và nhấn mạnh thị trường tự do có thể thất bại. Những đại diện chính là Alfred Marshall, Stanley Jevons và Arthur Cecil Pigou. Trường phái Áo do Menger, kinh tế gia người Áo, Eugen von Böhm-Bawerk và Friedrich von Wieser đại diện. Họ phát triển học thuyết về tư bản và tìm cách giải thích các cuộc khủng hoảng kinh tế. Trường phái này nổi lên với tác phẩm của Menger: Principles of Economics (1871, Những nguyên lý của kinh tế học).

Độ thỏa dụng biên

phải|nhỏ|[[William Stanley Jevons giúp phổ biến học thuyết về độ thỏa dụng biên.]] Carl Menger (1840–1921), một kinh tế gia trường phái Áo, tuyên bố nguyên tắc cơ bản của thỏa dụng biên trong tác phẩm Grundsätze der Volkswirtschaftslehre (1871, Những nguyên lý của kinh tế học). Người tiêu dùng hành động duy lý bằng cách tối đa hóa độ thỏa mãn tất cả các sở thích của họ. Họ phân phối chi tiêu theo cách đơn vị cuối cùng của một hàng hóa mà họ mua tạo ra sự hài lòng lớn nhất còn có thể. Stanley Jevons (1835–1882) là cộng sự người Anh của Menger, sau này sẽ trở thành trợ giảng rồi giáo sư tại Đại học Owens, Manchester và Đại học Tổng hợp London. Ông nhấn mạnh trong Theory of Political Economy (1871, Học thuyết về kinh tế chính trị) rằng ở mức biên, sự hài lòng với một hàng hóa và dịch vụ sẽ giảm xuống. Một ví dụ của quy luật độ thỏa dụng giảm dần là với mỗi quả cam mà một người ăn, họ sẽ ít thấy nó mang lại sự hài lòng hơn so với quả cam trước đó (cho tới khi người đó không thể ăn cam nữa). Rồi Léon Walras (1834–1910), một lần nữa cũng làm việc độc lập, tổng quát hóa học thuyết này đối với nền kinh tế trong Elements of Pure Economics (1874, Những nhân tố của kinh tế thuần túy). Những thay đổi nhỏ trong sở thích của mọi người, chẳng hạn việc chuyển từ thịt bò sang nấm, sẽ dẫn tới giá nấm tăng và giá thịt bò giảm. Điều này khiến người sản xuất dịch chuyển sản xuất, tăng đầu tư vào nấm, tăng cung trên thị trường và đạt tới một mức cân bằng mới giữa các sản phẩm, chẳng hạn như giảm giá nấm xuống mức đâu đó giữa hai mức ban đầu. Với nhiều sản phẩm khác trong nền kinh tế, mọi việc cũng sẽ xảy ra như thế, nếu giả định rằng thị trường là cạnh tranh, mọi người lựa chọn duy lý và không có chi phí trong việc chuyển đổi sở thích và sản xuất.

Những cố gắng ban đầu để giải thích các cuộc khủng hoảng theo chu kỳ, mà Karl Marx đã nói đến trước đó, không thành công. Sau khi tìm ra một tương quan về mặt thống kê giữa những vết đen Mặt Trời và các chu kỳ kinh doanh vào thời điểm nhiều người tin rằng các vết đen Mặt trời ảnh hưởng tới thời tiết do đó làm ảnh hưởng tới sản lượng nộng nghiệp, Stanley Jevons viết,

Phân tích toán học

nhỏ|phải|upright|[[Alfred Marshall viết sách giáo khoa kinh tế được dùng thay cho sách của John Stuart Mill, Principles of Economics (1882, Những nguyên lý của kinh tế học)]] Vilfredo Pareto (1848–1923) là một nhà kinh tế người Ý nổi tiếng với việc phát triển khái niệm về nền kinh tế cho phép tối đa hóa độ thỏa dụng của mỗi cá nhân, nhờ vào độ co giãn về độ thỏa dụng của những người khác thông qua sản xuất và trao đổi. Kết quả là hiệu quả Pareto. Pareto phân tích về mặt toán học đối với sự phân bổ nguồn lực như thế, đáng chú ý là thông qua việc phân bổ thu nhập trong nền kinh tế.

Alfred Marshall cũng được ghi nhận đặt kinh tế học trên một cơ sở toán học vững chắc hơn. Ông là giáo sư đầu tiên về kinh tế h

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** là lịch sử của các nhà tư tưởng và học thuyết kinh tế chính trị và kinh tế học từ thời cổ đại đến ngày nay. Lịch sử tư
**Lịch sử tư tưởng kinh tế** đã được ghi chép lại khá sớm ở Hy Lạp và La Mã, ngay từ thời cổ đại. Một số nhà tư tưởng Hy Lạp và La Mã cổ
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
**Kinh tế học chính thống** là phần kiến thức, lý thuyết và mô hình kinh tế được giảng dạy bởi các trường đại học trên toàn thế giới, và thường được các nhà kinh tế
**Kinh tế chính trị** là một môn khoa học xã hội nghiên cứu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa đặt trong mối quan hệ với chính trị dưới nhãn quan của chính trị
nhỏ|Cây kinh tế học không chính thống. **Kinh tế học phi chính thống** là bất kỳ tư tưởng hay lý thuyết kinh tế nào tương phản với các trường phái tư tưởng kinh tế chính
**Kinh tế học vĩ mô tổng hợp** là một trường phái kinh tế học vĩ mô dựa trên việc tổng hợp các học thuyết của kinh tế học tân cổ điển với kinh tế học
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Kinh tế học cổ điển** hay **kinh tế chính trị cổ điển** là một trường phái kinh tế học được xây dựng trên một số nguyên tắc và giả định về nền kinh tế để
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
Nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế học đã được đưa ra, bao gồm cả "những gì các nhà kinh tế học làm". Thuật ngữ trước đây của 'kinh tế học' là _kinh tế
**Kinh tế học sinh thái,** hoặc **sinh thái kinh tế,** vừa là lĩnh vực nghiên cứu khoa học xuyên ngành vừa là khoa học liên ngành giải quyết các sự phụ thuộc lẫn nhau và
**Kinh tế học thể chế mới** (tiếng Anh: **New institutional economic**) là một trào lưu kinh tế học hiện đại có đối tượng nghiên cứu là những quy ước xã hội, những quy định pháp
Kinh tế học trọng cung nhấn mạnh các biện pháp nâng cao năng lực sản xuất, đẩy đường tổng cung AS dịch chuyển sang phải, nâng cao tốc độ tăng trưởng tiềm năng, từ đó
**Chủ nghĩa tự do cá nhân** hay **chủ nghĩa tự do ý chí** (tiếng Anh: _libertarianism_, từ tiếng Latinh: _liber_, tự do) là học thuyết triết học chính trị ủng hộ tự do như là
Bản đồ Chỉ số tự do kinh tế năm 2014 được công bố bởi Quỹ Di Sản. Mỗi quốc gia được biểu thị bởi một màu tương ứng với mức độ tự do kinh tế
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
thumb|right|348x348px|Bìa của bài thơ có chủ đề tiến hóa của [[Erasmus Darwin, _Temple of Nature_ cho thấy một nữ thần vén bức màn bí ẩn của thiên nhiên (bên trong là Artemis). Tượng trưng và
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
Karl Marx, người sáng lập ra học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin **Kinh tế chính trị Marx-Lenin** hay **kinh tế chính trị học Marx-Lenin** là một lý thuyết về kinh tế chính
Trong kinh tế học, lợi ích là sự thỏa mãn hoặc hài lòng do tiêu dùng một sản phẩm mang lại. **Lợi ích cận biên** mô tả mức độ hài lòng hoặc thỏa mãn mà
**Chủ nghĩa tiền tệ** là hệ thống các học thuyết và lý luận kinh tế vĩ mô liên quan đến tiền tệ, một biến số kinh tế quan trọng. Những người theo chủ nghĩa tiền
right|thumb| Một hải cảng tưởng tượng được lồng ghép [[biệt thự Medici, vẽ bởi Claude Lorrain vào khoảng năm 1637, thời kì đỉnh cao của chủ nghĩa trọng thương]] **Chủ nghĩa trọng thương** là một
**Kinh tế Đài Loan** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với kỹ nghệ cùng mức độ công nghiệp hóa cao. Năm 2019, GDP danh nghĩa của hòn đảo
**Đại học Kinh tế Cracow** (tiếng Ba Lan: _Uniwersytet Ekonomiczny w Krakowie_, UEK) là một trong năm trường đại học kinh tế công Ba Lan. CUE ra đời vào năm 1925. Đây là trường đại
**Chủ nghĩa trọng nông** hay **trường phái trọng nông** là một trong những trường phái kinh tế tiêu biểu, cho rằng nguồn gốc thuần túy của sự giàu có của mỗi quốc gia là từ
nhỏ|Bàn tay vô hình là phép ẩn dụ do Adam Smith đưa ra vào năm 1776. **Bàn tay vô hình** (tiếng Anh: _invisible hand_) là một phép ẩn dụ, một tư tưởng kinh tế do
**Lịch sử của thuyết tương đối hẹp** bao gồm rất nhiều kết quả lý thuyết và thực nghiệm do nhiều nhà bác học khám phá như Albert Abraham Michelson, Hendrik Lorentz, Henri Poincaré và nhiều
**Kinh tế xã hội** là khoa học xã hội nghiên cứu cách thức hoạt động kinh tế ảnh hưởng và được định hình bởi các quá trình xã hội. Nói chung, nó phân tích cách
**Vật lý kinh tế** là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, áp dụng các lý thuyết và phương pháp ban đầu được các nhà vật lý phát triển để giải quyết các vấn đề
Nền **kinh tế thị trường xã hội** () là một nền kinh tế trong đó nhà nước bảo đảm tự do hoạt động kinh tế, thương mại, nhưng có những chính sách về kinh tế
**Giá trị sử dụng** của một vật phẩm là bao gồm các tính chất có ích, công dụng của vật thể đó có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó cho việc sản xuất
## Sự hình thành thuyết tương đối tổng quát ### Những khảo sát ban đầu Albert Einstein sau này nói rằng, lý do cho sự phát triển thuyết tương đối tổng quát là do sự
**Kinh tế biển** (**Kinh tế đại dương** – **ocean economy**) bao gồm các hoạt động kinh tế theo ngành, liên ngành liên quan tới biển, đại dương, đường bờ biển; bao gồm các hoạt động
**Học thuyết giá trị lao động** là một trong những học thuyết kinh tế về giá trị. Theo học thuyết này, giá trị của hàng hóa là do lượng lao động cần thiết để sản
**Lịch sử Ấn Độ độc lập** bắt đầu khi Ấn Độ trở thành quốc gia độc lập trong Khối Thịnh vượng chung Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Kể từ năm 1858, người
**Tư tưởng Juche** (Hangul: 주체); (phát âm trong tiếng Triều Tiên) (主體: âm Hán Việt: Chủ thể) hay **Tư tưởng Kim Nhật Thành** là một hệ tư tưởng chính thức của Nhà nước Cộng hòa
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
Bài **Lịch sử Israel** này viết về lịch sử quốc gia Israel hiện đại, từ khi được tuyên bố thành lập năm 1948 cho tới tới hiện tại. Nền độc lập của Nhà nước Israel
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
Đặc trưng giai đoạn này của Liên xô là sự lãnh đạo của **Joseph Stalin**, người đang tìm cách tái định hình xã hội Xô viết với nền kinh tế kế hoạch nhiều tham vọng,
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,