Thời kỳ 386-394
Hậu Yên (384 – 409) do Mộ Dung Thùy chiếm Liêu Hà thành lập nhà Hậu Yên. Năm 384 (Yên Nguyên nguyên niên, Hậu Yên), quý tộc Mộ Dung Thùy của Tiền Yên tự xưng Yên Vương, định đô ở Trung Sơn (Định Huyện, Hà Bắc) sử gọi là Hậu Yên.
Lịch sử
Mộ Dung Thùy (326-396) là con út của Mộ Dung Hoảng, khai quốc Hoàng đế Tiền Yên. Năm 344, nhờ có công đánh thắng tộc Vũ Văn nên Thùy được phong làm Độ Hương Hầu. Năm 354, lại được phong Ngô Vương và được phái đi trấn thủ Bình Châu (Đông Liêu Ninh). Vì không được vua Yên lúc đó là Mộ Dung Vĩ sử dụng nên Thùy chạy sang hàng Tiền Tần, được Phù Kiên dùng làm tướng.
Khi Tiền Yên bị Tiền Tần tiêu diệt, bèn quy phụ Phù Kiên (Vua Tiền Tần), được phong làm Bân Đô Hầu, theo Phù Kiên đi đánh Tấn. Khi quân Tần tan rã trở về, Thùy cầm một cánh quân rút lui rất kỷ luật nên hầu như không bị thiệt hại và giao lại quân cho Phù Kiên. Nhân lúc được Phù Kiên sai mang binh đi cứu Nghiệp Thành (năm 384), bèn phản Tiền Tần, chiếm cứ Hà Bắc. Được những người thân Yên cũ ủng hộ, Thùy có trong tay lực lượng khá mạnh, tự xưng Đại tướng quân, Đại đô đốc, rồi Yên Vương, nhanh chóng phát triển nước Hậu Yên thành nước lớn ở Bắc Hoàng Hà và Đông Thái Hàng, đóng đô ở Trung Sơn, lập chính quyền Hậu Yên, đến năm 386 thì xưng Đế.
Phát triển thế lực
Dựng nước không lâu, Hậu Yên đánh chiếm Nghiệp Thành do Ai Bình Đế Phù Phi (con Phù Kiên) cố thủ và tiêu được diệt thế lực nhà Tiền Tần ở Quan Đông. Đến năm 392, Hậu Yên diệt luôn nước Ngụy do Đinh Linh Địch Chiêu dựng lên ở Hà Nam, chiếm được 7 quận và 3 vạn dân. Trước đó, năm 388, tất cả các tôn thất Tiền Yên, con cháu Mộ Dung Tuấn và Mộ Dung Thùy đều bị Vua Tây Yên Mộ Dung Vĩnh xử tử. Mộ Dung Thùy không muốn tộc Mộ Dung bị chia rẽ, bèn mang quân đánh Tây Yên. Năm 394, Mộ Dung Thùy giết được Mộ Dung Vĩnh, diệt Tây Yên, khôi phục bản đồ từ thời Tiền Yên. Hậu Yên trở thành quốc gia mạnh nhất vùng Trung Nguyên.
Năm 395 (niên hiệu Kiến Hưng thứ 10), Hậu Yên cử 9 vạn quân đánh Bắc Ngụy, nhưng đại bại, bị chết hàng chục nghìn quân. Khoảng 4, 5 vạn quân đầu hàng bị Bắc Ngụy chôn sống toàn bộ.
Về cơ bản, Hậu Tần và Hậu Yên đóng ở vị trí như Tiền Tần và Tiền Yên trước đây.
Bắc Ngụy tấn công
Tuy nhiên, cục diện đó lập tức bị phá vỡ. Nước Ngụy của Thác Bạt Khuê nhanh chóng lớn mạnh, cất quân Nam tiến, đánh Hậu Yên. Quân Yên không chống nổi, Thái tử Mộ Dung Bảo liên tục thua trận. Mộ Dung Thùy phải tự tay cầm quân tạm đẩy lui được quân Nguỵ, nhưng không lâu sau thì già yếu mà mất (396).
Kể từ đó, Hậu Yên suy yếu, con Mộ Dung Thùy là Mộ Dung Bảo (355-398) nối ngôi, đế hiệu là Huệ Mẫn Đế. Vì hạ lệnh kiểm soát hộ khẩu nên bị phần tử thượng tầng tộc Tiên Ti và tộc Hán phản kháng. Mộ Dung Bảo lên ngôi trong cảnh ngoại xâm nội loạn. Tháng 3/397, một người em là Mộ Dung Lân làm phản. Quân Ngụy lại Nam tiến, lấy đất Hậu Yên như tằm ăn lá dâu. Vùng Hà Nam, Hà Bắc bị quân Ngụy chiếm, công phá Kinh đô Trung Sơn. Mộ Dung Bảo phải tháo chạy lên phương Bắc đến Long Thành (Triêu Dương, Liêu Ninh) rồi lập đô ở đó, sai Khai Phong Công Mộ Dung Tường giữ Trung Sơn. Đến tháng 4/398, Mộ Dung Bảo bị Thượng thư Lan Hãn nổi loạn giết chết.
Suy vong
Hậu Yên rút lên phía bắc, chỉ bao gồm đất của nước Yên cổ thời Chiến Quốc xưa kia. Cùng lúc đó, nội bộ Hậu Yên lại xảy ra tranh đoạt, chém giết lẫn nhau, khiến liên tiếp chỉ trong chưa đầy 10 năm, các vua Mộ Dung Bảo (398), Mộ Dung Thịnh (401), Mộ Dung Hy (407) đều bị giết.
Mộ Dung Tường (?-397) là Vương thất Hậu Yên, được Mộ Dung Bảo sai cố thủ Trung Sơn, chống giữ Bắc Ngụy. Tháng 5/397, sau khi Mộ Dung Bảo chạy lên phía bắc, Bắc Ngụy rút quân, Mộ Dung Tường tự xưng Hoàng đế. Ở ngôi được 2 tháng thì bị Triệu Vương Mộ Dung Lân đột nhập Trung Sơn, giết chết.
Triệu Vương Mộ Dung Lân (?-398) là con Mộ Dung Thùy, giết Mộ Dung Tường, tự xưng Hoàng đế ngay khi người anh Mộ Dung Bảo còn sống.
Thời kỳ này, Hậu Yên có 2 vua, Huệ Mẫn Đế Mộ Dung Bảo đóng ở Long Thành và Mộ Dung Lân đóng ở Trung Sơn. Tháng 10/397, Bắc Nguỵ một lần nữa công phá Trung Sơn. Mộ Dung Lân phải tháo chạy về Nghiệp Thành nương nhờ người chú Phạm Dương Vương Mộ Dung Đức. Mộ Dung Lân bàn với Mộ Dung Đức rút về Hoạt Đài (An Dương, Hà Nam). Mộ Dung Đức đồng ý và cho di dân đến Hoạt Đài. Tháng 1/398 thì bị Mộ Dung Đức bức tử.
Chiêu Vũ Đế Mộ Dung Thịnh: con Mộ Dung Bảo. Sau Sự biến Lan Hãn, Mộ Dung Thịnh (373-401) tập hợp tâm phúc dẹp loạn, tháng 7/398 giết chết được Lan Hãn và đồng đảng, xưng Trường Lạc Vương; tháng 10 lên ngôi tại Long Thành. Tính tình hung hãn tàn bạo, bị mọi người oán giận. Năm 400 bỏ đế hiệu, xưng là Yên Dân Thiên Vương. Năm 401, bị một tay chân là Xạ Thương làm phản đâm chết.
nhỏ|Mối liên hệ của các triều Yên quốc Mộ Dung
Chiêu Văn Đế Mộ Dung Hy (385-407) là con Mộ Dung Thùy, được phong Hà Gian Vương năm 393, được Đinh Hoàng hậu của Chiêu Vũ Đế Mộ Dung Thịnh đưa lên ngôi, tính tình hoang dâm, vô sỉ, sủng ái Phù Hoàng hậu, nền thống trị thối nát, không màng đến sự sống chết của bá tánh và quân sĩ, nhân dân muốn làm loạn. Mộ Dung Hy cho tiến hành xây dựng các công trình lớn. Năm 403 cho xây cung Long thành trong vườn thượng uyển, có chiều dài 4 dặm vuông, dài 1 dặm, cao 57 mét, huy động hơn 2 vạn nhân công. Đến mùa hè năm 404 lại xây tiếp cung Tiêu Diêu với hàng trăm phòng, người làm việc không được nghỉ, phân nửa số nhân công chết vì nóng và kiệt sức. Ngoài ra các thú vui tiêu khiển như nuôi hổ và chó sói của Mộ Dung Hy cũng làm 5000 người thiệt mạng.
Tháng 7/407, trong lúc đưa tang Phù Hoàng hậu, các tướng Cấm quân là Phùng Bạt và Trương Hưng phò tá Mộ Dung Vân, đánh chiếm Hoàng cung, giết chết Mộ Dung Hy. Hậu Yên bị diệt vong tồn tại 24 năm.
Các vua Hậu Yên
- Thế Tổ Vũ Thành Đế Mộ Dung Thùy (384-396), niên hiệu Yên Nguyên, Kiến Hưng
- Liệt Tông Huệ Mẫn Đế Mộ Dung Bảo (396-398), niên hiệu Vĩnh Khang
- Khai Phong Công Mộ Dung Tường (397)
- Triệu Vương Mộ Dung Lân (398)
- Trung Tông Chiêu Vũ Đế Mộ Dung Thịnh (398-401), niên hiệu Kiến Bình, Trường Lạc
- Chiêu Văn Đế Mộ Dung Hy (401 - 407), niên hiệu Quang Thủy, Kiến Thủy
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Thời kỳ 386-394 **Hậu Yên** (384 – 409) do Mộ Dung Thùy chiếm Liêu Hà thành lập nhà Hậu Yên. Năm 384 (Yên Nguyên nguyên niên, Hậu Yên), quý tộc Mộ Dung Thùy của Tiền
Thời kỳ 386-394 **Nhà Tây Yên** (384 -394) là một quốc gia thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Hoa. ## Lập quốc Sau khi Tiền Yên bị Tiền Tần tiêu diệt,
**Chiến tranh Yên-Tề** (284 TCN - 279 TCN), là trận chiến quy mô lớn diễn ra vào thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc với sự tham gia của bảy nước chư hầu, trong
**Bắc Yên** (chữ Hán: 北燕) là một quốc gia trong thời đại Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Hoa. Đây là một trong số ít các quốc gia do người Hán thành
Năm 351 Năm 369 **Tiền Yên** là nhà nước đầu tiên của người Tiên Ty ở vùng Đông Bắc Trung Quốc do Mộ Dung Hoảng thành lập năm 337, diệt vong năm 370. Các nhà
**Nhà Nam Yên** (398 – 410) là nhà nước trong thời Ngũ Hồ Thập lục quốc do Mộ Dung Đức chiếm đông Sơn Đông thành lập nhà Nam Yên. ## Lịch sử Hiếu Vũ Đế
Hoàng hậu (chữ Hán: 皇后, tiếng Anh: Empress) là vợ chính (chính cung, chính thê, nguyên phối) của nhà vua xưng Hoàng đế, do Hoàng đế sắc phong. Vương hậu là vợ chính (chính cung,
**Yên Chiêu Tương vương** (chữ Hán: 燕昭襄王; trị vì: 311 TCN-279 TCN), thường gọi là **Yên Chiêu Vương** (燕昭王), là vị vua thứ 39 hay 40. ## Lên ngôi trong loạn lạc Vua cha Yên
**Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝敬憲皇后; ; 28 tháng 6, năm 1681 - 29 tháng 10, năm 1731), là Hoàng hậu duy nhất tại vị của Thanh Thế Tông Ung Chính Hoàng đế.
**Đạo Vũ Mộ Dung Hoàng hậu** (chữ Hán: 道武慕容皇后), là nguyên phối Hoàng hậu của Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế Thác Bạt Khuê - vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Bắc Nguỵ trong lịch
**Huy Gia Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 徽嘉皇太后; 1441 - 8 tháng 4, 1505), hay **Trường Lạc Hoàng hậu** (長樂皇后), là phi tần của hoàng đế Lê Thánh Tông, sinh mẫu của hoàng đế Lê
**Triệu Phi Yến** (Phồn thể: 趙飛燕; giản thể: 赵飞燕; 45 TCN - 1 TCN), còn gọi **Hiếu Thành Triệu Hoàng hậu** (孝成趙皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Thành Đế Lưu Ngao - vị
**Mộ Dung Thùy** () (326–396), tên tự **Đạo Minh** (道明), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Vũ Thành Đế** ((後)燕武成帝) là một đại tướng của nước Tiền Yên và sau này trở thành hoàng
**Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là **Thác Bạt Khuê** (拓拔珪), tên lúc sinh là **Thác Bạt Thiệp Khuê** (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy
**Yên Sơn quân** (chữ Hán: 燕山君; Hangul: 연산군; 23 tháng 11, 1476 – 20 tháng 11, 1506), là vị vua thứ 10 của nhà Triều Tiên, trị vì từ năm 1494 đến khi bị lật
**Mộ Dung Hi** () (385–407), tên tự là **Đạo Văn** (道文), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Chiêu Văn Đế** ((後)燕昭文帝), là một hoàng đế của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc.
**Mộ Dung Thịnh** () (373–401), tên tự **Đạo Vận** (道運), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Yên Chiêu Vũ Đế** ((後)燕昭武帝), là một hoàng đế của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Mộ Dung Bảo** () (355–398), tên tự **Đạo Hựu** (道佑), là hoàng đế thứ nhì của nước Hậu Yên thời Thập Lục Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi Mộ Dung Thùy kiến lập
**Trận Tham Hợp Pha** () là trận đánh giữa hai nước Hậu Yên và Bắc Ngụy, diễn ra vào giai đoạn hậu kì của Ngũ Hồ Thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trận
**Mộ Dung Lân** (, ?-398) là một tướng lĩnh và một thân vương của nước Hậu Yên trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những người con trai của hoàng đế khai quốc
**Hậu Triệu** (tiếng Trung giản thể: 后赵, phồn thể: 後趙, bính âm: Hòuzhào; 319-352) là một quốc gia thuộc Ngũ Hồ thập lục quốc trong thời Đông Tấn (265-420) tại Trung Quốc. Nhà nước này
**Bắc Yên Huệ Đế**, tên thật là **Cao Vân** (chữ Hán: 高雲, Chosŏn'gŭl: 고운l; romaja: _Ko Un_, ? - 409), hay **Mộ Dung Vân** (慕容雲), tự là **Tử Vũ** (子雨), là vua nước Bắc Yên
**Võ Hoàng Yến** (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1988) là một nữ người mẫu kiêm nhân vật truyền hình người Việt Nam. Được đánh giá là một trong những người mẫu Việt Nam xuất
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Nhân Hiếu Văn Hoàng hậu** (chữ Hán: 仁孝文皇后; 5 tháng 3 năm 1362 - 6 tháng 8 năm 1407), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Thành Tổ Chu Đệ và là sinh mẫu của
**Hậu Trần** (chữ Nôm: 茹後陳, chữ Hán: 後陳朝, Hán Việt: _Hậu Trần triều_) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam từ 1407 đến 1414 mà các sách sử vẫn chưa thống nhất cách
**Phú Yên** là một tỉnh cũ ven biển nằm ở trung tâm khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Tuy Hòa. Năm 2018, Phú
**Hưng Yên** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. ## Địa lý trái|nhỏ|Một góc thành phố Hưng Yên Thành phố Hưng Yên nằm ở phía nam của tỉnh Hưng Yên,
**Yên Hoàn công** (chữ Hán: 燕桓公; trị vì: 372 TCN-362 TCN), hay còn gọi là **Yên Hậu Hoàn công** (燕後桓公), để phân biệt với vị vua thứ 20 là Yên Tiền Hoàn công trước đây,
**Yển phu nhân** (chữ Hán: 匽夫人; ? - 152), tên thật **Yển Minh** (匽明), là thiếp thất của Bình Nguyên vương Lưu Dực, và là mẹ đẻ của Hán Hoàn Đế. ## Tiểu sử Yển
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
**Yên Châu** là một huyện thuộc tỉnh Sơn La, Việt Nam. ## Vị trí địa lý Huyện nằm về phía đông nam của tỉnh Sơn La, có vị trí địa lý: * Phía bắc giáp
**Yên** (Phồn thể: 燕國; Giản thể: 燕国) là một quốc gia chư hầu ở phía bắc của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, tồn tại từ thời kỳ đầu của Tây Chu qua Xuân
**Lã hậu** (chữ Hán: 呂后, 241 – 180 TCN), có âm khác **Lữ hậu**, thường gọi **Lã Thái hậu** (呂太后) hay **Hán Cao hậu** (漢高后), là vị Hoàng hậu duy nhất của Hán Cao Tổ
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Yên Tuyên hầu** (chữ Hán: 燕宣侯; trị vì: 710 TCN-698 TCN), là vị vua thứ 16 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con của Yên Mục
**Yên Trịnh hầu** (chữ Hán: 燕鄭侯; trị vì: 764 TCN-729 TCN), là vị vua thứ 14 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con của Yên Ai
**Yên Mục hầu** (chữ Hán: 燕穆侯; trị vì: 728 TCN-711 TCN), hay còn gọi là **Yên Mâu hầu**, là vị vua thứ 15 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Yên Li hầu** hay **Yên Hi hầu** (chữ Hán: 燕釐侯; trị vì: 826 TCN-791 TCN), tên thật là **Cơ Trang** (姬莊), là vị vua thứ 11 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong
**Yên Huệ hầu** (chữ Hán: 燕惠侯; trị vì: 864 TCN-827 TCN), là vị vua thứ 10 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Sử ký không xác định được
Nhà Chu (1066 TCN - 256 TCN) là triều đại dài nhất trong lịch sử các vương triều phong kiến Trung Quốc, nếu tính từ Hậu Tắc được Đường Nghiêu phân phong thì sự hiện
**Yên Hoàn hầu** (chữ Hán: 燕桓侯; trị vì: 697 TCN-691 TCN), là vị vua thứ 17 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con của Yên Tuyên
**Yên Ai hầu** (chữ Hán: 燕哀侯; trị vì: 766 TCN-765 TCN), là vị vua thứ 13 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con của Yên Khoảnh
**Yên Khoảnh hầu** (chữ Hán: 燕頃侯; trị vì: 790 TCN-767 TCN), là vị vua thứ 12 của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con của Yên Li
**Yên Giản công** (chữ Hán: 燕簡公; trị vì: 414 TCN-373 TCN), hay **Yên Hậu Giản công** (燕後簡公), để phân biệt với vị vua thứ 30 là Yên Tiền Giản công, hoặc còn gọi là **Yên
**Yên hầu Hiến** (chữ Hán: 燕侯憲; trị vì: ?-?), là vị vua thứ tư của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Theo Yên quốc sử cảo, ông tên thật
**Yên hầu Vũ** (chữ Hán: 燕侯舞; trị vì: ?-?), là vị vua thứ ba của nước Yên - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông tên thật là **Cơ Vũ** (姬舞), theo
**Thành Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 誠孝昭皇后, 1379 - 20 tháng 11, 1442), hay **Thành Hiếu Trương Thái hậu** (誠孝張太后), là Hoàng hậu duy nhất của Minh Nhân Tông Chu Cao Sí, mẹ ruột
**Chiêu Huệ Vương hậu** (chữ Hán: 昭惠王后; Hangul: 소혜왕후; 8 tháng 9, 1437 - 27 tháng 4, 1504), còn được biết đến nhiều hơn với tên gọi **Nhân Túy Đại phi** (仁粹大妃; 인수대비), là vợ
**Vương Yến Nghi** (chữ Hán: 王燕儀, tên tiếng Anh: **Shenise Wong**) là người đã đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ Singapore 2008 vào ngày 21/5/2008. Vương Yến Nghi đã từng là đại diện của Singapore