Lý Kỳ () (314–338), tên tự Thế Vận (世運), thụy hiệu Cung Đô U công (邛都幽公), là một Hoàng đế của nước Thành trong lịch sử Trung Quốc. Ông chiếm lấy ngai vàng sau khi anh trai Lý Việt (李越) ám sát người kế vị vua cha Lý Hùng là Lý Ban, cũng là anh họ của cả hai, vào năm 334. Thời kỳ ông trị vì được xem như là một trong những giai đoạn suy đồi từ sau thời gian trị vì của Lý Hùng. Sau đó ông bị người anh em họ của cha là Hán vương Lý Thọ lật đổ vào năm 338. Lý Kỳ tự sát sau khi bị giáng xuống hàng "công". Lý Thọ nắm lấy ngai vàng và chuyển tên nước từ Thành sang Hán, các nhà sử học xem đây như một nước duy nhất.
Đầu đời
Lý Kỳ là con trai thứ tư của Lý Hùng, vị hoàng đế khai quốc của Thành, với một người thiếp của ông, song Lý Kỳ được Nhâm Hoàng hậu nuôi dưỡng. Khi Lý Kỳ còn trẻ, ông là người thông minh và có uy tín. Khi Lý Hùng hỏi các con trai của mình đi tìm người tải giỏi trong nhân dân để ban cho chức quan, Lý Kỳ là người thành công nhất, vì thế nhiều quan lại Thành Hán là những người do Lý Kỳ phát hiện ra.
Lý Hùng phong cho Lý Ban, con trai của Lý Đãng (李蕩), làm thái tử, song sau khi Lý Hùng chết vào năm 334 và Lý Ban lên kế vị, Lý Kỳ cùng với Lý Việt (李越) đã bất mãn, họ bí mật mưu đồ chống lại Lý Ban. Em trai của Lý Ban là Lý Ngọ (李玝) đã nghe thấy tin đồn về âm mưu này nên đã đề nghị Lý Ban gửi Lý Việt và Lý Kỳ khỏi kinh thành, song Lý Ban không muốn làm như vậy trước khi chôn cất Lý Hùng. Thay vào đó, ông cử Lý Ngọ đến để giảm bớt mâu thuẫn. Đến mùa đông, trong một đêm khi Lý Ban đang mặc đồ tang đứng trước quan tài của Lý Hùng, Lý Việt đã ám sát Lý Ban và anh trai ông là Lý Độ (李都), Lý Kỳ được lập làm hoàng đế sau khi giả mạo một chiếu chỉ của Nhâm thái hậu buộc tội Lý Ban.
Trị vì
Lý Kỳ giao phó phần lớn các công việc chính sự cho anh trai Lý Việt, người được phong làm Kiến Ninh vương. Ông cũng tin tưởng Cảnh Khiên (景騫), Diêu Hoa (姚華), Điền Bao (田褒), và hoạn quan Hứa Phù (許涪), hiếm khi tham khảo ý các triều thần khác, mặc dù trong số họ không có ai là đặc biệt tài năng hay trung thực. Trật tự hòa bình mà Lý Hùng thiết lập bắt đầu xấu đi.
Năm 335, thúc phụ của Lý Ban là La Diễn (羅演) và viên quan Thượng Quan Đạm (上官澹) lập kế hoạch ám sát Lý Kỳ và đưa con trai của Lý Ban lên kế vị. Âm mưu bị phát giác, Lý Kỳ không chỉ hành quyết La Diễn và Thượng Quan Đạm mà còn giết cả mẹ của Lý Ban là La phu nhân.
Năm 336, Lý Kỳ ghen tị với tài năng của cháu trai là Ngũ Lĩnh công Lý Tái (李載), đã vu cáo Lý Tái tội phản nghịch và giết chết.
Cả Lý Kỳ và Lý Việt đều lo sợ trước người anh em họ của Lý Hùng là Hán vương Lý Thọ, vị tướng được kính trọng nhất Thành Hán. Lý Thọ nhận thức được điều này và sợ rằng mình sẽ là mục tiêu tiếp theo bị giết, và bất cứ khi nào đến kinh thành Thành Đô, ông đều lệnh cho các thuộc hạ báo cáo sai về việc Hậu Triệu hay Đông Tấn xâm lược để có thể nhanh chóng trở về. Năm 338, theo lời khuyên của ẩn sĩ Cung Tráng (龔壯), ông lập kế hoạch tấn công Thành Đô cùng với các quân sư La Hằng (羅恆) và Giải Tư Minh (解思明), với cam kết sau khi thành công, ông sẽ trở thành chư hầu của Đông Tấn. Ông sau đó giả mạo một bức thư từ người anh rể Nhâm Điều (任調) rằng Lý Kỳ có kế hoạch giết chết Lý Thục và ông đưa lá thư cho binh lính của mình. Binh lính tin vào điều này và họ sau đó đã tấn công Thành Đô, bắt Lý Kỳ. Người kế tự của Lý Thục là Lý Thế, một sĩ quan trong đội lính tại kinh thành, đã mở cổng thành và chào đón quân Lý Thọ. Lý Thọ cho bắt Lý Việt và các viên quan mà Lý Kỳ tin cậy và buộc Lý Kỳ phải ban lệnh giết chết họ. Ông sau đó giả mạo một chỉ dụ từ Nhâm Thái hậu để phế truất Lý Kỳ và giáng ông thành Cung Đô huyện công. Lý Thục sau một số do dự về việc lên ngôi hay trở thành chư hầu của Tấn, cuối cùng đã chọn trở thành hoàng đế và đổi tên nước sang Hán, thể hiện sự đoạn tuyệt với chế độ của Lý Hùng.
Lý Kỳ, trầm cảm trước việc chỉ là một huyện công nhỏ bé nên đã tự sát vào năm 338.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lý Kỳ** () (314–338), tên tự **Thế Vận** (世運), thụy hiệu **Cung Đô U công** (邛都幽公), là một Hoàng đế của nước Thành trong lịch sử Trung Quốc. Ông chiếm lấy ngai vàng sau khi
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
upright=1.35|nhỏ|Bức họa miêu tả [[Đường Thái Tông () tiếp đón sứ giả Thổ Phồn là Lộc Đông Tán (Gar Tongtsen Yulsung) tại kinh thành Trường An. Nhà Đường thúc đẩy thương nhân buôn bán, trao
**Lý Chiêu Hoàng** (chữ Hán: 李昭皇; 1218 - 1278), **Chiêu Hoàng Đế** (昭皇帝) hay **Chiêu Thánh Hoàng hậu** (昭聖皇后) là Nữ Hoàng của Đại Việt, cũng là Hoàng Đế cuối cùng của triều đại nhà
**Lý Hùng** (李雄) (274–334), tên tự **Trọng Tuyển** (仲雋), gọi theo thụy hiệu là **Thành (Hán) Vũ Đế** (成(漢)武帝), là vị Hoàng đế đầu tiên của nước Thành và cũng thường được coi là người
**Zeno** hay **Zenon** (; ; ) (425 – 491), tên thật là **Tarasis**, là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 474 tới 475 và một lần nữa từ 476 tới 491. Các cuộc nổi
thumb|upright|[[Dawit II|Lebna Dengel, _nəgusä nägäst_ (hoàng đế) của Ethiopia và thành viên của Vương triều Solomon.]] **Hoàng đế Ethiopia** (, nəgusä nägäst, "Vua của các vị vua"), còn được gọi là **atse** (, "hoàng đế"),
**Wilhelm I** (tên đầy đủ: _Wilhelm Friedrich Ludwig_; 22 tháng 3 năm 1797 – 9 tháng 3 năm 1888), là quốc vương Phổ từ ngày 2 tháng 1 năm 1861, chủ tịch Liên bang Bắc
**Julianus** (,; 331/332 – 26 tháng 6 năm 363), có hỗn danh là **Julianus Kẻ bội giáo**, hoặc là **Julianus Nhà hiền triết**, là một hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 355 cho
**Friedrich III của Đức** ( _Prinz von Preußen_; 18 tháng 10 năm 1831 – 15 tháng 6 năm 1888) là Hoàng đế Đức và là Vua của Phổ trong khoảng ba tháng (99 ngày) từ
**Honorius** (; 384 – 423), là một vị Hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ở ngôi từ năm 395 cho đến khi mất năm 423. Ông là người con út của Hoàng đế
nhỏ|Vương miện Hoàng đế Áo từ năm 1804 tới 1918. **Hoàng đế Áo**, đôi khi còn gọi là **Áo hoàng** (tiếng Đức: **_Kaiser von Österreich_**) là ngôi Hoàng đế cha truyền con nối và là
**Anastasius I** (, ; 430 – 518) là Hoàng đế Byzantine từ năm 491 đến 518. Dưới triều đại của ông biên cương Đế quốc Đông La Mã đã mở rộng việc gia cố lại
nhỏ|301x301px|Tượng gốm mô phỏng bộ binh và kỵ binh thời Tây Hán, trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Hải Nam. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai của Trung Quốc kế tục nhà Tần (221
nhỏ|Huy hiệu của [[Maximilian II của Thánh chế La Mã|Maximilian II từ 1564 tới 1576. Các hoàng đế sử dụng đại bàng hai đầu làm biểu tượng quyền lực]] **Hoàng đế La Mã Thần thánh**
**Leo I** () (401 – 474) là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 457 đến 474. Vốn là dân vùng Dacia Aureliana gần xứ Thracia trong lịch sử, vì vậy mà ông còn được
**Hoàng đế La Mã** là danh hiệu mà giới sử học dùng để gọi những người cai trị La Mã trong thời đại đế chế. Về mặt từ nguyên, từ "hoàng đế" (tiếng Anh:Emperor, tiếng
nhỏ|Mũ _Dực Thiện Quan_ đan từ sợi vàng của [[Minh Thần Tông|Vạn Lịch Đế, mô phỏng từ bản gốc khai quật từ Định lăng. Theo truyền thống nhà Minh, _Dực Thiện Quan_ màu vàng chỉ
**Họ Cá hoàng đế** hay **họ Cá rô phi** (danh pháp khoa học: **_Cichlidae_**) là một họ cá, theo truyền thống xếp trong bộ Perciformes. Tuy nhiên, gần đây người ta chuyển họ này sang
**Hoàn Giả Hốt Đô** (chữ Hán: 完者忽都; ; ? – 1369), còn biết đến với tên gọi **Hoàn Giả Đô** (完者都) hoặc **Kỳ hoàng hậu** (奇皇后; 기황후; _Empress Gi_), là một trong những Hoàng hậu
**Hách Xá Lý** (; Pinyin: Hesheli; Manchu: _Hešeri_), là một họ người Mãn thuộc Kiến Châu Nữ Chân. Nguồn gốc họ này xuất phát từ bộ tộc Hách Xá Lý với địa bàn sinh sống
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝聖憲皇后, tiếng Mãn: ; tiếng Mãn Châu: hiyoošungga enduringge temgetulehe hūwangheo; 1 tháng 1 năm 1693 - 2 tháng 3 năm 1777), thường gọi là **Sùng Khánh Hoàng
**Quản lý loài hoang dã** (_Wildlife management_) hay **quản lý động vật hoang dã** là quá trình quản lý ảnh hưởng đến sự tương tác giữa động vật hoang dã, môi trường sống của chúng
**Hoàng đế Trung Phi** (Pháp: **_Empereur de Centrafrique_**) là người trị vì của Đế quốc Trung Phi từ năm 1976 đến 1979. Tổng thống Jean-Bédel Bokassa tự xưng hoàng đế lấy hiệu là Bokassa I
phải|nhỏ|240x240px| Góc của ba Hoàng đế hôm nay: Trước năm 1918, bên trái của cảnh này là người Đức, người Nga trung và bên phải người Áo-Hung **Three Emperors' Corner** (Góc của ba Hoàng đế)
**Đường Trung Tông Vi Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐中宗韋皇后, ? - 21 tháng 7, năm 710), thường gọi **Vi hậu** (韋后) hay **Vi Thái hậu** (韋太后) hoặc **Trung Tông Vi Thứ nhân** (中宗韋庶人), kế phối,
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Lý Tự Thành** (李自成) (1606-1645) nguyên danh là **Hồng Cơ** (鴻基), là nhân vật thời _"Minh mạt Thanh sơ"_ trong lịch sử Trung Quốc. Cuộc khởi nghĩa và cuộc đời của Lý Tự Thành gắn
**Tùy Dạng Đế** (chữ Hán: 隋煬帝, 569 - 11 tháng 4, 618), có nguồn phiên âm là **Tùy Dượng Đế**, **Tùy Dương Đế** hay **Tùy Dưỡng Đế**, đôi khi còn gọi là **Tùy Minh Đế**
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Flavius Valerius Aurelius Constantinus** (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280 – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là **Constantinus I**, **Constantinus Đại Đế** hay **Thánh Constantinus** (đối
**Nam Đường Hậu Chủ** (chữ Hán: 南唐後主; 937 - 978), tên thật là **Lý Dục** (李煜), thông gọi **Lý Hậu Chủ** (李後主), là vị vua cuối cùng nước Nam Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc
**Đường Cao Tông Vương Hoàng hậu** (chữ Hán: 唐高宗王皇后; ? - 655), hay còn gọi là **Cao Tông Phế hậu Vương thị** (高宗廢后王氏) hoặc **Cao Tông Thứ nhân** (高宗庶人), là chính thất cũng như Hoàng
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Tùy Văn Đế** (chữ Hán: 隋文帝; 21 tháng 7, 541 – 13 tháng 8, 604), miếu hiệu **Tùy Cao Tổ**, tên Hán là **Dương Kiên** (楊堅), tên Tiên Ti là **Fuluruqen** (普六茹堅, Phổ Lục Như
**Lêô III** (Tiếng Latinh: **Leo III**) là vị giáo hoàng thứ 96 của giáo hội Công giáo. Ông đã được Giáo hội suy tôn là thánh sau khi qua đời. Niên giám tòa thánh năm
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Lý Cảo** (; 351 – 417), tên tự **Huyền Thịnh** (玄盛), biệt danh là **Trường Sinh** (長生), là vị vua khai quốc của nước Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian cai
**Chiến tranh tâm lý** hay **tâm lý chiến** là hệ thống (tổng thể) các phương thức, các thủ đoạn,hoạt động loại bỏ trạng thái chính trị - tinh thần và tổ chức, lực lượng vũ
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
thumb|Huy hiệu của Thụy Điển (với lỗi [[Tincture (huy hiệu)|tinctures) trên một bức tường của Tòa thị chính tại Lützen ở Đức]] Thuật ngữ **Đế quốc Thụy Điển** dùng để chỉ tới **Vương quốc Thụy
**Cuộc khủng hoảng tị nạn Ukraina** là một cuộc di chuyển lớn của người dân Ukraina trong cuộc xâm lược do Nga tiến hành vào năm 2022. Khủng hoảng bắt đầu với cuộc xâm lược
Sáng ngày 24/3/2024, trong không khí trang nghiêm và đầy thành kính, tại Di tích Đàn tế Nam Giao (thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), Hội đồng họ Hồ tỉnh Thanh Hóa
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Tống Cung Đế** (chữ Hán: 宋恭帝, 2 tháng 11 năm 1271 - tháng 5 năm 1323), hay còn gọi là **Doanh Quốc công**, **Tống Đế Hiển** (宋帝㬎), tên thật là **Triệu Hiển** (趙㬎), là vị
**Hán Hoàn Đế** (chữ Hán: 漢桓帝; 132 – 167), tên thật là **Lưu Chí** (劉志), là vị Hoàng đế thứ 11 nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 26 của nhà Hán trong
**Nam Tề Vũ Đế** (chữ Hán: 南齊武帝; 440–493), tên húy là **Tiêu Trách** (), tên tự **Tuyên Viễn** (宣遠), biệt danh **Long Nhi** (龍兒), là hoàng đế thứ hai của triều đại Nam Tề trong