✨Bactria

Bactria

Các đô thị cổ của Bactria. Bactria hay Bactriana (tiếng Hy Lạp: Βακτριανα, tiếng Ba Tư: بلخ Bākhtar), thư tịch Hán văn ghi là 大夏 (Hán-Việt: Đại Hạ), là tên gọi cổ đại của một khu vực lịch sử tại Trung Á, nằm trong phạm vi của dãy Hindu Kush và sông Amu Darya (Oxus). Nó là một phần của vùng ngoại biên thế giới Iran và vùng lãnh thổ này ngày nay thuộc về Afghanistan, Tajikistan, Uzbekistan và một phần nhỏ của Turkmenistan.

Biên giới phía đông của Bactria là khu vực Gandhara cổ đại. Ngôn ngữ Bactria là ngôn ngữ thuộc nhóm Đông Iran, là một nhóm ngôn ngữ của ngữ tộc Ấn-Iran, một tộc của ngữ hệ Ấn-Âu.

Người Bactria là tổ tiên của người Tajik, người Pashtun và người Pamiri ngày nay.

Địa lý

Theo P. Leriche:

Lịch sử

Phức hệ khảo cổ Bactria-Margiana

nhỏ|tượng Nữ thần Bactria, Afghanistan, 2000–1800 TCN. Phức hệ khảo cổ Bactria-Margiana (BMAC, còn được gọi là "nền văn minh Oxus") là cụm từ khảo cổ học hiện đại dùng để chỉ một nền văn hóa thời đại đồ đồng của Trung Á ngày khoảng năm 2200-1700 trước Công nguyên, nằm ​​ở Turkmenistan ngày nay, miền Bắc Afghanistan, miền nam Uzbekistan và phía tây Tajikistan, trung tâm thượng nguồn sông Amu Darya (Oxus), trong khu vực bao gồm Bactria cổ. Các di chỉ của nó đã được phát hiện và đặt tên bởi nhà khảo cổ học Liên Xô Viktor Sarianidi (năm 1976). Bactria là tên Hy Lạp cho khu vực của Bactra (Balkh ngày nay) ở phía bắc Afghanistan, và Margiana là tên tiếng Hy Lạp của tỉnh Ba Tư Margu, thủ phủ tại Merv, ở Turkmenistan ngày nay.

Sử gia Hy Lạp,Ctesias -khoảng năm 400 TCN- là người đầu tiên (tiếp theo là Diodorus Siculus) cho rằng vịvua Assyria huyền thoại Ninus đã đánh bại một vị vua Bactria tên là Oxyartes vào khoảng năm 2140 trước Công nguyên, hoặc khoảng 1000 năm trước khi cuộc chiến tranh thành Troy.

Theo một số nhà nghiên cứu, Bactria là quê hương của các bộ tộc Ấn-Âu, họ di chuyển về phía tây nam đến Iran và tới khu vực Tây Bắc Ấn Độ khoảng năm 2500-2000 trước Công nguyên. Sau này, nó đã trở thành tỉnh phía bắc của Đế chế Ba Tư ở Trung Á.

Cyrus Đại đế

Bactria thuộc đế quốc Iran từ giai đoạn đầu của quốc gia này. E. Herzfeld cho rằng Bactria thuộc về đế quốc Medes. Nó bị Cyrus Đại đế sáp nhập vào đế quốc Ba Tư vào thế kỉ 6 TCN và cùng với Margiana nó tạo thành xatrapy (tỉnh) thứ 12 của Ba Tư.

Alexandros Đại đế

Alexandros xâm chiếm Sogdiana và Iran nhưng ở phía nam, vượt qua sông Oxus thì ông đã vấp phải sức kháng cự mạnh mẽ. Sau 2 năm chiến tranh Bactria trở thành một tỉnh của đế quốc Macedonia, nhưng Alexandros đã không chinh phục được người dân. Sau khi Alexandros chết, đế quốc Macedonia bị phân chia giữa các tướng lĩnh trong quân đội của chính ông. Bactria trở thành một phần của đế quốc Seleucid, đặt theo tên người sáng lập ra triều đại này là Seleukos I.

Đế quốc Seleucid

Người Macedonia (đặc biệt là Seleukos I và con trai Antiochus I), thành lập đế quốc Seleucid và thiết lập nhiều đô thị Hy Lạp lớn ở miền đông Iran, và ngôn ngữ Hy Lạp đã chiếm vai trò chủ chốt ở thời gian này.

Vương quốc Hy Lạp-Bactria

[[Stater vàng cuat vua Hy Lạp-Bactria Eucratides, đồng tiền vàng lớn nhất trong thời cổ đại.]] Bản đồ vương quốc Hy Lạp-Bactria khi mở rộng nhất, khoảng năm 180 TCN.

"Đế quốc Bactria danh tiếng với ngàn đô thị, đắm mình trong sự giàu có (_opulentissimum illud mille urbium Bactrianum imperium_)"

Nhiều khó khăn mà các vị vua nhà Seleukos vấp phải cũng như các cuộc tấn công của Ptolemaios II của Ai Cập, đã tạo cơ hội cho Diodotus, phó vương của Bactria tuyên bố độc lập (khoảng 255 TCN) và xâm chiếm Sogdiana. Ông là người sáng lập ra vương quốc Hy Lạp-Bactria. Diodotus và những người kế vị ông đã có thể đứng vững trước các cuộc tấn công từ phía đế quốc Seleucid, cụ thể là từ Antiochus III Đại đế, người cuối cùng bị Cộng hòa La Mã đánh bại vào năm 190 TCN.

Vương quốc Hy Lạp-Bactria đủ mạnh để có thể mở rộng lãnh thổ của mình xa tới Ấn Độ. Strabo từng viết: :"Còn đối với Bactria, một phần của nó nằm dọc theo Aria về phía bắc, mặc dù phần lớn của nó nằm trên Aria và về phía đông của nó. Và phần lớn của nó sản xuất mọi thứ, ngoại trừ dầu. Người Hy Lạp, những người đã tạo ra một Bactria nổi dậy lớn mạnh dựa trên sự phì nhiêu của đất nước mà họ đã trở thành chủ nhân, không chỉ của mỗi Bactria mà còn vượt xa, tới cả Ấn Độ, như Apollodorus của Artemita nói: và số bộ lạc bị họ chinh phục còn nhiều hơn so với bị Alexandros chinh phục...."

Người Hy Lạp-Bactria sử dụng tiếng Hy Lạp cho các mục đích hành chính, và tiếng Bactria bản địa cũng bị Hy Lạp hóa, như được thấy từ sự chấp nhận bảng chữ cái Hy Lạp và các từ vay mượn từ tiếng Hy Lạp. Đến lượt mình, một số trong số các từ này cũng được tiếng Pashto ngày nay vay mượn.

Vương quốc Ấn-Hy Lạp

phải|Người sáng lập ra [[vương quốc Ấn-Hy Lạp, Demetrius I (205–171 TCN), đội mũ kiểu mảng da đầu voi, biểu tượng cuộc xâm chiếm Ấn Độ của ông.]]

Vua Bactria Euthydemus và con trai ông Demetrius đã vượt qua Hindu Kush và bắt đầu xâm chiếm Bắc Afghanistan cùng thung lũng sông Ấn. Trong một khoảng thời gian ngắn, họ đã có thế lực lớn: một đế quốc của người Hy Lạp dường như đã lớn mạnh lên tại phương Đông. Nhưng đế quốc này đã bị xé lẻ do các bất đồng nội bộ và các cuộc chiếm đoạt liên tục. Khi Demetrius tiến xa vào Ấn Độ thì một trong các viên tướng của ông, Eucratides, đã tự tuyên bố làm vua Bactria, và rất nhanh chóng sau đó trong mỗi tỉnh đều nổi lên những kẻ tiếm quyền khác, những người đều tự tuyên bố mình là vua và đánh lẫn nhau.

Phần lớn trong số này ngày nay chỉ biết đến nhờ các đồng tiền xu của họ, mà phần lớn trong số đó được tìm thấy tại Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ. Do các cuộc chiến tranh này, vị trí thống lĩnh của người Hy Lạp bị suy giảm nhanh chóng hơn nhiều so với nếu như không có các cuộc chiến này. Sau Demetrios và Eucratides, các vị vua đã từ bỏ tiêu chuẩn Attica trong đúc tiền và đề ra tiêu chuẩn bản địa, không còn nghi ngờ gì nữa là để thu hút sự ủng hộ từ cộng đồng người Hy Lạp thiểu số từ bên ngoài.

Tại Ấn Độ, điều này còn đi xa hơn nữa. Vua Hy Lạp-Ấn Độ Menander I (được biết như là Milinda tại Ấn Độ), được công nhận như là một vị vua chinh phục vĩ đại, đã cải đạo sang theo Phật giáo. Những người kế vị ông đã có thể giữ lấy quyền lực cho tới vị vua Hy Lạp -Ấn Độ cuối cùng còn được biết đến là vị vua có tên gọi là Strato II, vị vua cai trị tại khu vực Punjab cho tới khoảng năm 55 TCN. Tuy nhiên, các nguồn khác lại coi sự kết thúc thời gian trị vì của Strato II vào khoảng năm 10.

Người Saka và Nguyệt Chi

Kho báu từ khu mộ táng hoàng tộc [[Tillia tepe được coi là của người Saka tại Bactria trong thế kỷ 1 TCN.]] Sự suy yếu của đế quốc Hy Lạp-Bactria được chỉ ra bằng sự lật đổ đột ngột và toàn bộ của nó, đầu tiên là do người Saka và sau đó là do người Nguyệt Chi (sau này được biết tới như là người Quý Sương), những người đã xâm chiếm Đại Hạ (= Bactria) vào khoảng thời gian mà Trương Khiên, người được Hán Vũ đế phái đi thăm dò khảo sát các vùng đất phía tây Trung Quốc, tới đây (khoảng năm 127 TCN).

Kujula Kadphises, tây hầu (hay vương) Quý Sương của Đại Nguyệt Chi, hợp nhất khu vực này vào đầu thế kỷ 1 và đặt nền tảng cho một đế quốc hùng mạnh nhưng tồn tại ngắn ngủi là vương triều Quý Sương (thế kỷ 1-3), sau đó bị người Sassanian từ Ba Tư lật đổ.

Tiếp xúc với Trung Hoa

[[Trương Khiên được Hán Vũ Đế đưa tiễn trước chuyến thám hiểm tới Trung Á từ 138 tới 126 TCN, tranh trên tường tại hang Mạc Cao, khoảng 618–712.]] Tên gọi Đại Hạ xuất hiện trong tiếng Trung từ thế kỷ 3 TCN để chỉ một vương quốc bí ẩn ở phía tây, có thể là kết quả của những cuộc tiếp xúc đầu tiên với sự mở rộng của vương quốc Hy Lạp-Bactria, và sau đó được nhà thám hiểm Trương Khiên sử dụng năm 126 TCN để chỉ Bactria.

Các báo cáo của Trương Khiên được ghi chép lại trong Sử ký của Tư Mã Thiên trong thế kỷ 1 TCN. Các báo cáo này miêu tả một nền văn minh đô thị quan trọng của khoảng 1 triệu người sinh sống trong các đô thị có thành quách bao quanh dưới quyền của các vị tiểu vương. Đại Hạ là đất nước giàu có nhiều chợ búa, buôn bán nhiều chủng loại hàng hóa, có nguồn gốc xa tới tận vùng Hoa Nam. Vào thời gian Trương Khiên tới Đại Hạ, tại đây đã không còn vị đại vương và người Bactria đã tôn người Nguyệt Chi du cư, những người sinh sống ở vùng lãnh thổ phía bắc bên kia sông Amu Darya (Oxus), lên làm bá chủ. Về tổng thể Trương Khiên mô tả những người tinh tế nhưng mất hết tinh thần do sợ hãi chiến tranh.

Tiếp theo những báo cáo này, Hán Vũ Đế còn được thông báo về mức độ tinh tế của văn minh đô thị Ferghana, Bactria và Parthia và ông tỏ ra thích thú với việc phát triển mối quan hệ thương mại với họ:

:"Thiên tử khi nghe thấy những điều này đã nói rằng: Đại Uyên (大宛, Ferghana) và những vùng thuộc Đại Hạ (Bactria) cùng An Tức (安息, Parthia) là các nước lớn, sản vật phong phú, với dân cư sống trong các nơi cố định và có nghề nghiệp gần giống như của người Hán, nhưng có quân đội yếu và trả giá cao cho các sản vật của Trung Hoa" (Hán thư).

Những mối tiếp xúc này ngay lập tức dẫn tới việc sai phái nhiều đoàn sứ giả từ Trung Quốc tới và điều đó giúp cho Con đường tơ lụa được phát triển.

Tokharistan

Sau khi người Nguyệt Chi định cư (được mô tả ở phương Tây là "người Tocharia"), vùng đất quanh Bactria được gọi là Tokharistan. Lãnh thổ của Tokharistan giống hệt với vùng Bactria của người Quý Sương, bao gồm các vùng Surkhandarya, miền Nam Tajikistan và miền Bắc Afghanistan.

Các tác phẩm văn học đầu tiên đề cập đến Tokharistan xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 4 trong nguồn Phật giáo Trung Quốc (Vibhasa-sastra). Tuy nhiên, những đề cập đầu tiên đến người Tocharia xuất hiện sớm hơn nhiều, trong thế kỷ 1 trước Công nguyên, khi Strabo đề cập đến "người Tokharia, cùng với người Assianis, Passianis và Sakaraulis, đã tham gia vào việc hủy diệt vương quốc Hy Lạp-Bactria" trong nửa sau của thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Ptolemy cũng đề cập đến một bộ lạc Tokharia lớn trong Bactria, mô tả vai trò trung tâm của người Tokharia giữa các bộ tộc khác ở Bactria.

Từ thế kỷ 1 đến thế kỷ thứ 3, Tokharistan nằm dưới sự cai trị của người Quý Sương. Tiếp theo sau họ là người Sassanid (Ấn-Sassanid). Sau đó, trong thế kỷ thứ 5, nó được kiểm soát bởi người Tây Nhung và người Hephthalite. Trong thế kỷ thứ 7, sau một thời gian ngắn dưới sự cai trị của các Khaganat người Turk, nó bị chinh phục bởi người Ả Rập và sau đó quân Mông Cổ và sau này, bởi người Nga.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Diodotos I Soter** (Tiếng Hy Lạp: ; tên hiệu của ông có nghĩa là "Vị cứu tinh"; ông sinh vào khoảng năm 285 TCN – mất vào khoảng năm 235 TCN) là vị vua đã sáng
**Tiếng Bactria** (Αριαο, "ariao", , "người Iran") là ngôn ngữ bị thất truyền thuộc nhóm ngôn ngữ Đông Iran trước đây được sử dụng tại Bactria, một khu vực thuộc Trung Á (Afghanistan ngày nay)
**Agathocles Dikaios** (, " Người Công bằng") là một vị vua Phật giáo của vương quốc Ấn-Hy Lạp, ông đã trị vì trong giai đoạn khoảng từ năm 190 đến năm 180 TCN. Ông có
**Demetrios I** hay **Demetrius** (Tiếng Hy Lạp: _ΔΗΜΗΤΡΙΟΣ_) hoặc (Demetrius = Dhammamitra, người bạn/ mitra của Dhamma ở Pali) là một vị quốc vương Phật giáo của vương quốc Hy Lạp-Đại Hạ (cai trị khoảng
**Plato** vua của vương quốc Hy Lạp-Bactria, trị vì trong một thời gian ngắn ở miền nam Bactria hoặc Paropamisade trong thời gian giữa thế kỷ thứ 2 TCN. Phong cách của tiền xu Plato
**Vương quốc Hy Lạp-Bactria** cùng với vương quốc Ấn-Hy Lạp là các vương quốc nằm ở cực đông của thế giới Hy Lạp hóa, vương quốc này tồn tại từ năm 256 cho tới năm
Các đô thị cổ của Bactria. **Bactria** hay **Bactriana** (tiếng Hy Lạp: Βακτριανα, tiếng Ba Tư: بلخ _Bākhtar_), thư tịch Hán văn ghi là 大夏 (Hán-Việt: **Đại Hạ**), là tên gọi cổ đại của một
**Eukratides I** (tiếng Hy Lạp: Εὐκρατίδης Α΄), đôi khi được gọi là **Eukratides Đại đế**, là vua của vương quốc Hy Lạp-Bactria từ năm 170 đến năm 145 trước Công nguyên. Eukratides có lẽ nguyên
**Diodotos II Theos** (Tiếng Hy Lạp: ; qua đời vào khoảng năm 225 TCN) là vị vua thứ hai của vương quốc Hy Lạp-Bactria. Cha của ông là vua Diodotos I, ông ta đã đưa
**Euthydemos I** (Tiếng Hy Lạp: ; sinh khoảng năm 260 TCN – mất khoảng năm 200/195 TCN) là vua của vương quốc Hy Lạp-Bactria, theo nhà sử học Polybios thì ông đã cai trị vào
Vua **Heliocles** (tiếng Hy Lạp: Ἡλιοκλῆς) của vương quốc Hy Lạp-Bactria, cai trị khoảng 145-130 TCN, có thể là con trai hoặc em trai và là người kế nhiệm của Eucratides I Đại đế, và
**Ai-Khanoum** hoặc **Ay Khanum** (có nghĩa là "Nguyệt nữ" trong tiếng Uzbek, nơi này có lẽ là **Alexandria bên bờ Oxus** trong lịch sử và đã được đổi tên thành **اروکرتیه** hay **Eucratidia** sau này)
**Eucratides II** (tiếng Hy Lạp: ) là một vị vua Hy Lạp-Bactria, người mà đã kế vị và có lẽ là một người con của Eucratides I. Có lẽ Eucratides II đã cai trị trong
**Euthydemos II** là con trai của Demetrios I của Bactria, và trở thành vua của Bactria khoảng năm 180 TCN, hoặc là sau cái chết của cha mình hoặc là đồng trị vì với ông.
**Antimachos I** (Tiếng Hy Lạp: ; được biết đến với tên gọi **Antimakha** trong các ghi chép Ấn Độ) là một trong số những vị vua Hy Lạp-Bactria, niên đại cai trị của ông có
**Antimachos II Nikephoros ** (Tiếng Hy Lạp: , Nikephoros có nghĩa là "Người chiến thắng") là một vị vua Ấn-Hy Lạp. Ông cai trị trên một lãnh thổ rộng lớn kéo dài từ Hindu Kush
**Vương quốc Ấn-Hy**, **Vương quốc Ấn-Hy Lạp** hay **Vương quốc Graeco-Ấn Độ**, còn được gọi trong lịch sử là **Vương quốc Yavana** (Yavanarajya), là một vương quốc Hy Lạp thời kỳ Hy hóa bao gồm
**Lịch sử của Afghanistan,** (**' **' **' **') với tư cách là một nhà nước bắt đầu vào năm 1747 với sự thành lập của Ahmad Shah Durrani. Văn bản ghi lại lịch sử của
**Đế quốc Seleucid** (, _Basileía tōn Seleukidōn_) là một vương quốc thời Hy Lạp hóa được cai trị bởi gia tộc Seleukos từ năm 312 đến năm 63 TCN. Seleukos I Nikator đã thành lập
**Đế quốc Quý Sương**, tức **Đế quốc Kushan** (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan
**Người Saka** (tiếng Ba Tư cổ: ; Kharoṣṭhī: ; tiếng Ai Cập cổ: , ; , tiếng Hán thượng cổ , mod. , ), **Shaka** (tiếng Phạn (Brāhmī): , 12x12px 12x12px, ; tiếng Phạn (Devanāgarī):
**Người Ấn-Scythia** là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ người Saka (hoặc Scythia), những người đã di cư vào Bactria, Sogdiana, Arachosia, Gandhara, Kashmir, Punjab, Gujarat, Maharashtra và Rajasthan, từ giữa thế kỷ
Sự di cư của người Nguyệt Chi qua vùng Trung Á, từ khoảng năm [[176 TCN đến năm 30]] **Nguyệt Chi** (tiếng Trung:月氏, hoặc 月支) hay **Đại Nguyệt Chi** (tiếng Trung:大月氏, hoặc 大月支), là tên
**Afghanistan** ( ; Pashto / Dari: , ; (), tên gọi chính thức là **Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan** là một quốc gia miền núi không giáp biển ở ngã tư Trung và Nam
**Theophilos** (Tiếng Hy Lạp: ) là một vị vua Ấn-Hy Lạp nhỏ cai trị trong một thời gian ngắn ở Paropamisadae. Ông đã có thể là một người họ hàng của Zoilos I và chỉ
**Người Scythia** hay **người Scyth** là một dân tộc Iran bao gồm những người chăn thả gia súc, sống du mục, cưỡi ngựa đã thống trị vùng thảo nguyên Hắc Hải trong suốt thời kỳ
**Demetrios II của Ấn Độ** (tiếng Hy Lạp: ) là một vị vua Hy Lạp-Bactria có thể đã cai trị trong thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Ít thông tin được biết về ông
**Antiochos III Đại đế** (Tiếng Hy Lạp: ****; 241 TCN – 187 TCN, trị vì từ năm 222 TCN đến năm 187 TCN) là hoàng đế (_Megas Basileus_) thứ sáu của Đế quốc Seleukos thời
**Apollodotos I Soter **(tiếng Hy Lạp: , có nghĩa là "Apollodotos, Vị cứu tinh"; tiếng Phạn: _महरजस अपलदतस त्रतरस, "maharajasa apaladatasa tratarasa"_), là một vua Ấn-Hy Lạp trong giai đoạn từ năm 180 đến năm
**Stasanor** (tiếng Hy Lạp: Στασάνωρ; sống thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên) là một người Soli bản địa ở Síp và nắm giữ một vị trí quan trọng trong số các tướng lĩnh của
nhỏ|Lăng mộ năm 1342 của [[Katarina Vilioni, thành viên của một gia đình thương gia người Ý ở Dương Châu]] Dựa trên bằng chứng văn bản và khảo cổ học, người ta tin rằng hàng
**Đại Uyên** (tại [[Ferghana) là một trong ba dân tộc tiên tiến của Trung Á vào khoảng 130 TCN, cùng với dân tộc Parthi và Hy-Đại Hạ, theo cuốn sử Trung Quốc _Hán thư_.]] **Đại
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
**Pantaleontos** (Tiếng Hy Lạp: ) là một vị vua Hy Lạp trị vì trong giai đoạn từ năm 190 TCN - 180 TCN tại Bactria và Ấn Độ. Ông còn rất trẻ vào thời gian
**Demetrius III Aniketos** "Bất khả chiến bại" ở đây được xác định là một vị vua Ấn-Hy Lạp trị vì trong khu vực Gandhara và Punjab. ## Sự tranh cãi về thời gian cai trị
nhỏ|Người Túc Đặc, được miêu tả trên một bia [[Bắc Tề Trung Quốc, khoảng năm 567-573 SCN.]] **Sogdiana** hoặc **Sogdia** (tiếng Ba Tư cổ: _Suguda-_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Σογδιανή, _Sogdianē_; tiếng Ba Tư:
**Bagram** (tiếng Ba Tư: بگرام Bagram), được thành lập với tên _Alexandria Caucasus_ và được biết đến trong thời Trung cổ như Kapisa, là một thị trấn nhỏ và thủ phủ ở huyện Bagramn trong
**Quan hệ La Mã – Trung Quốc** là các tiếp xúc chủ yếu gián tiếp, quan hệ mậu dịch, luồng thông tin và các lữ khách đi lại không thường xuyên giữa đế quốc La
thumb|Bản đồ cho thấy các vùng lãnh thổ và thuộc địa của người Hy Lạp dưới [[thời kỳ Archaic.]] **Hy Lạp hóa** (tiếng Anh: _Hellenisation_; tiếng Mỹ: _Hellenization_) là sự truyền bá nền văn hóa
**Merv** (, _Мерв_, مرو; , _Marv_; trước đây là AchaemenesBa Tư Satrap của Margiana; sau đó là **Alexandria** và **Antiochia _ở Margiana**_; ) là một thành phố ốc đảo nằm tại Trung Á, trên con
nhỏ|Cảnh Pranidhi, chùa 9 (Hang 20). Động Thiên Phật Bezeklik. nhỏ|Thương nhân [[Sogdiana cúng dường cho Thích-ca Mâu-ni. Động Thiên Phật Bezeklik.]] nhỏ|Tượng bán thân của một vị [[Bồ tát từ Kucha, thế kỷ thứ
**Uzbekistan** (phiên âm tiếng Việt: _"U-dơ-bê-ki-xtan"_), tên chính thức **Cộng hòa Uzbekistan** (tiếng Uzbek: _O‘zbekiston Respublikasi_), là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Trung Á, trước kia từng là một phần của
**Lịch sử Iran** hay còn được gọi là **lịch sử Ba Tư**, là lịch sử bao gồm nhiều đế quốc khác nhau trong suốt nhiều thiên niên kỷ qua tại Cao nguyên Iran và các
**Antiochos II Theos** (tiếng Hy Lạp: **Αντίοχος Β' Θεός**, 286 TCN – 246 TCN) là vị vua thứ ba của vương quốc Seleukos thời Hy Lạp hóa, cai trị từ năm 261 đến năm 246
**Seleukos I Nikator ** (tên hiệu là **Nikator**, tiếng Hy Lạp: _Σέλευκος Νικάτωρ_; , tức **Seleukos Vạn thắng vương**) (khoảng 358 TCN – 281 TCN), là một danh tướng Macedonia thời Alexandros Đại đế, và
**Đế chế Parthia** hay còn được gọi là **Đế chế Arsaces** (247 TCN – 224 CN) (tiếng Việt trong một số tài liệu Phật giáo còn dịch Parthia là **An Tức**) là một quốc gia
**Vardanes I của Parthia** cai trị Đế quốc Parthia từ khoảng năm 40-45SCN. Ông kế vị người cha Artabanus II của ông, nhưng đã phải liên tục chiến đấu chống lại Gotarzes II, một đối
[[Tập tin:AndragorasCoinHistoryofIran.jpg|tiền của Andragoras.
_Obv_:Bearded ruler wearing the taenia.
_Rev_': Greek legend ΑΝΔΡΑΓΟΡΟΥ ("Andragoras"). Quadriga driven by Nike, together with an armed warrior.]] **Andragoras **(? - 238 TCN) là một tổng trấn tỉnh Parthia (Parthia)
**Roxana** (tiếng Ba Tư: Rauxana, nghĩa là " ngôi sao nhỏ") đôi khi gọi là Roxane, là một quý tộc Bactria và là một người vợ của Alexandros Đại đế. Bà được sinh ra trước
**Heliocles II Dikaios **(Tiếng Hy Lạp: , "người ngay thẳng") là một vị vua Ấn-Hy Lạp và là một người họ hàng của vị vua Bactria Heliocles I. Bopearachchi và RC Senior dường như đồng