Tàu khu trục lớp Type 45 (còn được gọi là lớp D hoặc lớp Daring) là một lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển thuộc biên chế của Hải quân Hoàng gia Anh (RN). Nhiệm vụ chủ yếu của Type 45 là phòng không và chống tên lửa hành trình các loại trên mặt biển, với số lượng tên lửa có trong dàn phóng, Type 45 sẽ tạo một vùng không gian an toàn cho hạm đội \với bán kính đến 80 km. Tàu có khả năng phát hiện mục tiêu xa nhất là trên khoảng cách 400 km, gần nhất là 65 km. Độ phản xạ hiệu dụng đo được là 0,01 m2. Trong các cụm tàu hải quân công kích chủ lực, Type 45 đảm bảo phát hiện, theo dõi và tiêu diệt tất cả các mục tiêu đường không trên biển. Khoảng cách phòng thủ - tầm trung và tầm gần. Phối hợp, chỉ huy các hoạt động quân sự với Không quân Hải quân, che chắn cho các tàu ngầm và các tàu mặt nước trong đội hình chiến đấu. Tổng thầu thiết kế và đóng các chiến hạm này là Công ty BAE Systems Marine AS. Quá trình đóng tầu được tiến hành tại Nhà máy đóng tàu Skotsaundskoy thuộc sở hữu của công ty. Nhà máy đóng tàu Portsmouth đóng phần mũi tàu và các kết cấu trên boong. Chương trình đóng chiếc đầu tiên HMS Daring (mã số trên mạn tàu là D32), được bắt đầu từ tháng 4 năm 2003. Tàu được hạ thủy vào ngày 1 tháng 2 năm 2006 tại nhà máy đóng tàu Skotsaundskoy với sự hiện diện của nữ bá tước xứ Wesssex. Vào tháng 7 năm 2007, HMS Daring được đưa vào chạy thử nghiệm trên sông Clyde. Tàu đã hoàn thành các cuộc thử nghiệm các cấp và được bàn giao cho Bộ quốc phòng Anh. Tháng 1 năm 2009, HMS Daring đã cập cảng Căn cứ hải quân Portsmouth của RN. Mùa hè năm 2009, HMS Daring chính thức được đưa vào phục vụ trong lực lượng Hải quân hoàng gia Anh.
Type 45 được sử dụng để thay thế các tàu khu trục lớp Type 42 đã được đưa vào biên chế trang bị từ năm 1978, các tàu Type 42 cuối cùng đã được loại biên vào năm 2013. Theo kế hoạch ban đầu đã có đến 12 chiếc lớp Daring được đặt đóng. Đến năm 2004, hợp đồng bị cắt giảm xuống còn 8 chiếc và vào 2006 chỉ còn lại có 6 chiếc.
Lịch sử phát triển
Chiến tranh Falkland năm 1982, vụ tấn công tàu khu trục USS Stark của Hải quân Liên bang Mỹ năm 1987 và tàu hộ vệ INS Hanit của Hải quân Israel năm 2006 cho thấy rằng, những tàu chiến to lớn được vũ trang mạnh mẽ vẫn có thể bị hạ gục bởi một loại vũ khí tương đối nhỏ gọn và rẻ tiền hơn nhiều lần là tên lửa chống hạm, đặc biệt là các hệ thống tên lửa chống hạm di động trên đất liền có thể dễ dàng triển khai và cất dấu. Vì vậy, bảo vệ lực lượng tàu chiến, đặc biệt là tàu sân bay trước mọi cuộc tấn công của máy bay và tên lửa chống hạm đối phương là một trong những yếu tố sống còn cho sự tồn tại của hạm đội. Bởi lý do đó, tàu phòng không thường chiếm số lượng lớn nhất nhì trong các loại tàu chiến của hạm đội. Ví dụ hiện tại Hải quân Liên bang Mỹ có đến 62 tàu khu trục phòng không lớp Arleigh Burke đang hoạt động và dự định sẽ nâng lên đến con số 94 trong tương lai, nhiều hơn bất kỳ loại tàu chiến nào khác.
Type 45 xuất phát từ Dự án phát triển tàu khu trục cho thập niên 1990 của NATO (NFR-90) của 8 quốc gia thành viên thuộc Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO): Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan và Canada. Do yêu cầu quá khác biệt của mỗi quốc gia, dự án sụp đổ một thời gian sau đó. Năm 1992, Pháp, Ý và Anh tiếp tục đồng phát triển Dự án Horizon/Dự án phát triển tàu khu trục phòng không thế hệ mới (Common New Generation Frigate-CNGF). Tuy nhiên bất đồng lại tiếp tục nảy sinh: Pháp cần tàu phòng không hạm đội nhưng do tàu sân bay Charles de Gaulle của Pháp đã tự có khả năng phòng thủ tầm xa nên họ chỉ cần một loại tàu khu trục chuyên về phòng không tầm gần. Ý cũng có nhu cầu phòng không tầm gần tương tự khi hải quân của họ chủ yếu để bảo vệ khu vực biển nhà và cũng được nằm trong tầm che chắn của lực lượng không quân. Ngược với Pháp và Ý, hạm đội viễn dương của Anh hoạt động khắp nơi trên thế giới, ngoài tầm bảo vệ của không quân nên cần một loại tàu phòng không được trang bị mạnh mẽ có khả năng tác chiến độc lập. Do nhu cầu khác biệt, ngày 26 tháng 4 năm 1999, Anh tuyên bố rút khỏi dự án và bắt đầu phát triển loại tàu phòng không tầm xa của riêng mình, dẫn đến sự ra đời của lớp tàu khu trục Type 45.
Trước đây, lực lượng phòng không hạm đội của RN bao gồm 14 tàu khu trục lớp Type 42. Tuy nhiên so với tàu khu trục phòng không Arleigh Burke của Hải quân Liên bang Mỹ, Type 42 của Anh khá lỗi thời. Type 42 từ ban đầu đã có thiết kế không tốt, khá chật chội và chòng chành khi di chuyển, ảnh hưởng đến cả thủy thủ đoàn lẫn hệ thống vũ khí. Trong Chiến tranh Falkland năm 1982, tên lửa chống hạm Exocet và máy bay cường kích A-4 Skyhawk gắn bom thường của Argentina đã vượt được lá chắn phòng không và tiêu diệt 2 tàu khu trục loại này. Thiệt hại có thể còn thê thảm hơn nếu như không có nhiều chiếc may mắn thoát chết do bị đánh trúng nhưng bom không nổ. Type 45 được thiết kế từ kinh nghiệm sử dụng Type 42 và từ kinh nghiệm chiến đấu ở Falkland. Kích thước tàu được nâng lên đáng kể nhằm đem theo được nhiều loại vũ khí và giúp tàu di chuyển ổn định trên biển. Tàu được đóng theo công nghệ module tích hợp cho phép rút ngắn thời gian thi công và dễ dàng nâng cấp về sau. Toàn bộ phần thân tàu được đóng bằng thép hàn, hợp kim nhôm dùng cho các cấu trúc thượng tầng. Ở một số khu vực quan trọng trên tàu còn được bọc giáp Kelvar. Type 45 được thiết kế với khả năng tàng hình rất cao, hai bên mạn của tàu được thiết kế khá dốc, các đường bao của thân tàu và các phần thượng tầng được làm thuôn nhẵn, các hệ thống vũ khí trang bị, radar, xuồng được rút vào trong tàu, phần lớn các lỗ khe ở thân tàu và các mạn tàu được che chắn bằng các cửa chắn nhẹ, không thấm nước. Bề mặt tàu được phủ một lớp sơn đặc biệt có khả năng hấp thu sóng điện từ. Type 45 do đó có kích thước trên radar chỉ tương đương với một chiếc tàu cá nhỏ. Do có kích thước lớn nên các hệ thống đảm bảo cho ăn ở, sinh hoạt của tàu được lắp đặt rất đầy đủ và tiện nghi, tạo thoải mái cho thủy thủ đoàn trong các hoạt động tác chiến và nghỉ ngơi. Đặc biệt, tàu còn có khả năng tác chiến trong môi trường nhiễm xạ – sinh – hóa (NBC), các thủy thủ được giới hạn bảo vệ trong thân tàu.
Tàu Type 45 có chiều dài 154,2m, rộng 21,2m, mớn nước 7,3m, lượng giãn nước toàn tải 7.000 tấn, thủy thủ đoàn là 190 người và 45 vị trí dự phòng dành cho lực lượng Hải quân đánh bộ hoặc Biệt kích hải quân, đồng thời tàu cũng có thể sử dụng trong các nhiệm vụ sơ tán khẩn cấp với số lượng lên tới 700 người.
Hệ thống chỉ huy và kiểm soát chiến đấu đường không
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tàu khu trục lớp Type 45** (còn được gọi là **lớp D** hoặc **lớp Daring**) là một lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển thuộc biên chế của Hải quân Hoàng gia
**Tàu khu trục lớp Type 052** (định danh NATO là **_Luhu_ - _Lữ Hộ_**) là lớp tàu khu trục tên lửa tự hành đa nhiệm hiện đại đầu tiên của Trung Quốc. Lớp này có
**Tàu khu trục lớp Atago** (tiếng Nhật: あたご型護衛艦) là một lớp tàu khu trục tên lửa (**DDG**) được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis (AWS) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên
, hay còn được gọi là **lớp 19DD**, là một lớp tàu khu trục (**DD**) được phát triển bởi Mitsubishi Heavy Industries (MHI) cho Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Dự án lớp
**Tàu khu trục lớp Murasame** (tiếng Nhật: むらさめ型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu trục thế
**Tàu khu trục lớp Kongō** (tiếng Nhật: こんごう型護衛艦) là lớp tàu khu trục mang tên lửa có điều khiển (DDG) đầu tiên của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF) được chế tạo
**Tàu khu trục lớp Hatsuyuki** (tiếng Nhật: はつゆき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Hatsuyuki là một lớp tàu khu trục
**Tàu khu trục lớp Takatsuki** (tiếng Nhật: たかつき型護衛艦) là một lớp tàu khu trục phòng không (**DDA**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Takatsuki là lớp tàu khu
**Tàu khu trục** **lớp Takanami** (tiếng Nhật: たかなみ型護衛艦, _Takanami-gata goeikan_) là một lớp tàu khu trục (**DD**) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF). Đây là lớp tàu khu
**Tàu khu trục lớp Hyūga** (tiếng Nhật: ひゅうが型護衛艦) llà lớp tàu khu trục mang máy bay trực thăng (DDH) thuộc biên chế của Lực lược Phòng vệ trên biển Nhật Bản. Tên của lớp tàu
**Tàu khu trục lớp _Sejong the Great**_ hay **lớp _Sejong Đại đế_** (Hangul: 세종대왕급 구축함, Hanja: 世宗大王級驅逐艦), còn được gọi là KDX-III, là một lớp tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường được sử
**Tàu khu trục lớp _Chungmugong Yi Sun-sin**_ (, Hanja: 忠武公李舜臣級驅逐艦), còn được gọi là **KDX-II**, là một lớp tàu khu trục đa năng của Hải quân Hàn Quốc. Đây là lớp tàu thứ hai được
**Tàu khu trục lớp Maya** (**lớp 27DDG,** tiếng Nhật: **まや型護衛艦**) là một biến thể cải tiến của tàu khu trục lớp Atago, đã hoạt động trong biên chế Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật
**Tàu ngầm Type IXA** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào các năm 1935-1936 như những tàu ngầm đại dương hoạt động tầm xa. Khái niệm
**Tàu tuần tra tên lửa lớp Hayabusa** (tiếng Nhật: **はやぶさ型ミサイル艇**) là một lớp tàu tuần tra mang tên lửa thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF), do Nhà máy đóng tàu Shimonoseki
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**Tàu hộ tống khu trục lớp Abukuma** (tiếng Nhật: あぶくま型護衛艦) là một lớp tàu hộ tống khu trục (DE) thuộc biên chế của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản (JMSDF). Tất cả các tàu
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-75_**, sau đổi tên thành **_I-175_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**_I-45_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó hoạt động
**_U-45_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-98_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-43_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-47_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-96_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**_U-415_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-208_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-35_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_I-37_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực hiện
**_U-203_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-136_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_U-401_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_U-457_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-82_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-564_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_I-57_**, sau đổi tên thành **_I-157_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_Hiryū_** (**Nhật**: 飛龍, _Phi Long_) là một tàu sân bay thuộc lớp Sōryū được cải biến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó là một trong những tàu sân bay Nhật đã mở đầu
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**_I-12_** là một tàu ngầm lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2). Nhập