✨Type 052 (lớp tàu khu trục)
Tàu khu trục lớp Type 052 (định danh NATO là Luhu - Lữ Hộ) là lớp tàu khu trục tên lửa tự hành đa nhiệm hiện đại đầu tiên của Trung Quốc. Lớp này có 2 tàu mang số hiệu 112 và 113. Bắt đầu được đưa vào phục vụ từ năm 1994, đến năm 2011 cả hai đã được nâng cấp đáng kể về vũ khí.
Lịch sử phát triển
Tàu Cáp Nhĩ Tân 112 thăm Auckland, New Zealand (ngày 7 tháng 10 năm 2007) Cuối những năm 1980, hạm đội tàu chiến của Hải quân Trung Quốc bắt đầu trở nên lạc hậu, không còn đáp ứng được các yêu cầu của chiến tranh hải quân hiện đại. Trong khi đó, các nước lớn trên thế giới đã cho ra đời các thế hệ tàu khu trục mới với khả năng tác chiến vô cùng mạnh mẽ.
Trước tình hình đó, giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc đã hạ quyết tâm phát triển một thế hệ tàu khu trục mới có thể đáp ứng được những yêu cầu của chiến tranh hiện đại nhằm sánh vai cùng các nước lớn trên thế giới.
Cụ thể hóa cho tham vọng này, cuối những năm 1980, Trung Quốc đã bắt tay triển khai chương trình tàu khu trục đa chức năng mang tên lửa điều khiển Type 052 lớp Lữ Hộ. Chương trình được phát triển bởi Viện đóng tàu số 701 ở Thượng Hải và Nhà máy đóng tàu Giang Nam được giao trách nhiệm thực hiện dự án này. Kỹ sư trưởng của dự án là viện sĩ Pan Jingfu (潘 镜 芙)
Đây là lần đầu tiên Trung Quốc tiến hành đóng mới một loại tàu tham chiến mặt nước đa chức năng tiếp cận các tiêu chuẩn hiện đại, một cải tiến đáng kể so với lớp Luda trước đó. Tàu được thiết kế với khả năng tấn công phòng thủ, chống ngầm toàn diện. Đây cũng là lần đầu tiên một tàu chiến Trung Quốc trang bị vũ khí, các loại cảm biến tinh vi của phương Tây. Lớp Lữ Hộ đã sử dụng rộng rãi các công nghệ nước ngoài mà CHND Trung Hoa có thể tiếp cận trước Sự kiện biểu tình và thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Bao gồm các radar do Pháp sản xuất và hệ thống điều khiển hỏa lực và động cơ tuabin khí General Electric LM2500 của Mỹ. Type 052 trở thành khu trục hạm đầu tiên của Trung Quốc sử dụng động cơ tuabin khí, và cũng là chiếc đầu tiên được trang bị hệ thống tác chiến tích hợp.
Chiếc đầu tiên thuộc lớp này mang số hiệu 112 Cáp Nhĩ Tân được khởi đóng vào năm 1986, nhưng sau đó bị trì hoãn do nhà máy Giang Nam ưu tiên đóng mới các tàu chiến xuất khẩu theo đơn đặt hàng của Hải quân Thái Lan. Cáp Nhĩ Tân được hạ thủy vào năm 1991. Ngay sau khi được biên chế hoạt động ở Hạm đội Bắc Hải vào năm 1994, tàu này nhanh chóng trở thành soái hạm của hạm đội mạnh nhất Hải quân Trung Quốc khi đó.
Chiếc thứ hai mang số hiệu 113 Thanh Đảo được đưa vào trang bị năm 1997 cũng biên chế thuộc Hạm đội Bắc Hải. Tàu 112 Cáp Nhĩ Tân cùng với hai tàu khu trục khác đã có một chuyến đi lịch sử đến cảng San Diego, California, Liên bang Mỹ ngày 21 tháng 03 năm 1997 như là một sự quảng bá thành tựu và sự lớn mạnh của Hải quân Trung Quốc.
Tàu có chiều dài 142,6m , rộng 15,3m, mớn nước 5m , tải trọng 4.200 tấn tiêu chuẩn, 5.700 tấn đầy tải. Để vận hành con tàu cần có đội thủy thủ đoàn khoảng 260 người, trên các tàu khu trục lớp Type 052 có không dưới 40 sĩ quan chỉ huy cấp cao điều hành các bộ phận.
Danh sách
Hệ thống vũ khí
thumb|YJ-83 thumb|HQ-7 và PJ33A Type 052 được thiết theo công nghệ những năm 1980 nên hình dáng thủy động lực học của tàu không có gì tiêu biểu. Tàu được thiết kế theo truyền thống Liên Xô và được trang bị dày đặc các hệ thống vũ khí trong khi khả năng tác chiến lại không cao.
Tàu được vũ trang 1 pháo hạm nòng kép Type 79A (PJ-33A) 100mm, tốc độ bắn khoảng 18 viên/phút, với tầm bắn khoảng 22 km. Tàu được trang bị bốn bệ pháo phòng không nòng kép Type 76A 37mm, với hai ở phía trước và hai phía sau đuôi tàu. Pháo có tốc độ bắn khoảng 180 viên/phút, với tầm bắn khoảng 4,5 km chống máy bay. Lần hiện đại hóa năm 2011, bốn bệ pháo Type 76A được thay thế bằng hai hệ thống phòng thủ tầm cực gần Type 730 CIWS được bố trí trên nóc nhà chứa trực thăng.
Hệ thống phòng không, phòng thủ chính của tàu là một bệ phóng tên lửa phòng không HHQ-7, phiên bản hải quân của tổ hợp HQ-7. Với 8 tên lửa sẵn sàng phóng và 16 tên lửa dự phòng, được bố trí phía sau pháo hạm chính. Đây là bản sao của tổ hợp Crolate của Pháp, hệ thống có khả năng tác chiến chống máy bay trong mọi điều kiện thời tiết, với tầm bắn khoảng 8–12 km. Tuy nhiên, hệ thống này có khả năng chống tên lửa diệt hạm rất hạn chế với tầm bắn hiệu quả chỉ khoảng 4–6 km.
Hệ thống tên lửa chống hạm loại YJ-81 (C801A) với 8 tên lửa được bố trí trong các ống phóng giữa thân tàu. YJ-81 là một tên lửa chống hạm sao chép loại Exocet của Pháp. Loại tên lửa này chỉ có tầm bắn khoảng 42 km. Lần hiện đại hóa năm 2004, tàu này được tái trang bị bằng loại YJ-83 (C-802) với tầm bắn 120 km, đầu đạn nặng 165 kg.
Về chống ngầm, tàu được trang bị hai ống phóng ngư lôi loại 324mm, sử dụng ngư lôi loại Yu-7 (bản sao của ngư lôi Mk46 của Hải quân Mỹ). Ngư lôi này mang đầu đạn nặng 45 kg với tốc độ khoảng 43 hải lý/h, tầm bắn khoảng 7,3 km. Tàu còn được trang bị một hệ thống rocket chống ngầm loại RBU-1200 của Nga với 12 ống phóng rocket 240mm, tầm bắn 1.200m cơ số 120 quả.
Hệ thống động lực
trái|nhỏ|180x150px|Động cơ tuabin khí General Electric LM2500 Trong hệ thống động lực chính của tàu, thành phần động cơ diesel trên cả 2 tàu là các động cơ diesel Đức MTU 12V 1163TB83 do Trung Quốc sản xuất theo giấy phép, có tổng công suất 8.840 mã lực. Về động cơ tuabin khí: Cáp Nhĩ Tân 112 trang bị động cơ Mỹ General Electric LM2500 công suất 55.000 mã lực Trung Quốc mua thông qua Thái Lan để tránh cấm vận, Thanh Đảo 113 dùng động cơ GT25000 công suất 48.600 mã lực do Ukraine sản xuất. 4 động cơ của tàu có khả năng chuyển từ trạng thái nguội sang trạng thái công suất cực đại trong vòng 15 phút. Ngoài ra, tàu còn được lắp đặt bộ tản nhiệt tiên tiến giúp giảm đối đa bức xạ hồng ngoại khi hoạt động, nâng cao khả năng tránh các biện pháp dò tìm bằng hồng ngoại của đối phương. Hệ thống động lực này giúp tàu đạt tốc độ tối đa đạt 32 hải lý/h (56 km/h) phạm vi hoạt động 5.000 hải lý, tốc độ hành trình 18 hải lý/h, tàu có khả năng hoạt động liên tục 50 ngày trên biển.