✨Thế Paleocen

Thế Paleocen

Thế Paleocen hay thế Cổ Tân ("bình minh sớm của gần đây"), là một thế kéo dài từ khoảng 66,0 ± 0,3 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 56,0 ± 0,2 Ma. Nó là thế đầu tiên trong kỷ Paleogen của đại Tân Sinh. Giống như phần lớn các kỷ địa chất cổ hơn, các địa tầng xác định sự bắt đầu và kết thúc của thế địa chất này được xác định khá rõ nhưng niên đại chính xác vẫn chưa chắc chắn trong phạm vi từ 200.000 đến 300.000 năm.

Thế Paleocen diễn ra ngay sau khi xảy ra sự kiện tuyệt chủng hàng loạt ở cuối kỷ Creta, được biết đến như là ranh giới K-T, đánh dấu sự tiêu vong của khủng long. Sự tuyệt chủng của khủng long để lại các hốc sinh thái không được nhồi đầy trên khắp thế giới và tên gọi "Paleocen" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp và có liên quan tới quần động vật "Cổ (paleo) – Tân (ceno)" đã xuất hiện trong thế địa chất này, trước khi có sự nổi lên của các bộ động vật có vú hiện đại trong thế Eocen.

Ranh giới và các đơn vị

Ranh giới K-T đánh dấu sự tách rời của kỷ Creta và thế Paleocen là rõ ràng trong các mẫu địa chất ở nhiều khu vực trên Trái Đất do sự gián đoạn trong các hóa thạch động vật, với các mức hàm lượng iridi cao. Cũng có các chứng cứ hóa thạch về các thay đổi đột ngột trong quần thực vật và quần động vật. Bên cạnh đó cũng có một số chứng cứ về các thay đổi khí hậu quan trọng nhưng diễn ra rất ngắn đã diễn ra trong giai đoạn đầu của thế Paleocen. Có một vài giả thuyết về nguyên nhân gây ra sự kiện tuyệt chủng K-T, với phần lớn các chứng cứ hỗ trợ cho sự va chạm của một tiểu hành tinh đường kính khoảng 10 km gần Yucatan, México.

Sự kết thúc thế Paleocen (55,5/54,8 Ma) được đánh dấu bằng một trong những thời kỳ đáng kể nhất của thay đổi toàn cầu trong đại Tân Sinh. Tối đa nhiệt thế Paleocen-thế Eocen đã nâng cao sự lưu thông của đại dương và khí quyển, gây ra sự tuyệt chủng hàng loạt các loài trùng lỗ sống dưới đáy biển sâu cũng như tốc độ thay đổi lớn của động vật có vú sống trên đất liền.

Thế Paleocen thông thường được chia ra thành các phân thế Tiền, Trung và Hậu Paleocen, tương ứng với các tầng động vật, từ trẻ nhất tới cổ nhất, như sau:

Khí hậu

Thời kỳ Tiền Paleocen là mát lạnh hơn một chút so với kỷ Creta trước đó, mặc dù nhiệt độ lại tăng lên vào cuối thế. Khí hậu nóng và ẩm ướt trên khắp thế giới, với thảm thực vật cận nhiệt đới phát triển ở cả Greenland và Patagonia. Hai địa cực có khí hậu ôn đới mát còn Bắc Mỹ, châu Âu, Australia và miền nam Nam Mỹ có khí hậu ôn đới ấm. Khí hậu nhiệt đới đặc trưng cho các khu vực ven xích đạo còn phía bắc và phía nam đường xích đạo thì khí hậu rất khô và nóng .

Cổ địa lý học

Theo nhiều cách, thế Paleocen là thời kỳ tiếp tục các quá trình đã bắt đầu trong kỷ Creta. Trong thế Paleocen, các lục địa vẫn tiếp tục trôi dạt về các vị trí gần giống như ngày nay. Bắc Mỹ và châu Á vẫn còn được nối liền nhưng không liên tục bằng một cầu đất, trong khi Greenland và Bắc Mỹ đã bắt đầu tách rời. Kiến tạo sơn Laramide của thời kỳ Creta muộn vẫn tiếp tục nâng cao dãy núi Rocky tại miền tây Bắc Mỹ và nó chỉ kết thúc trong thế tiếp theo (thế Eocen).

Bắc và Nam Mỹ vẫn còn tách rời bởi một biển ven xích đạo (chúng nối liền vào nhau trong kỷ Neogen); các bộ phận của cựu siêu lục địa phương nam Gondwana vẫn tiếp tục tách rời nhau, với châu Phi, Nam Mỹ, châu Nam Cực và Australia đang rời xa nhau. châu Phi hướng lên phía bắc về phía châu Âu, khép dần biển Tethys một cách chậm chạp còn tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu sự di chuyển của nó về phía châu Á dẫn tới va chạm kiến tạo và sự hình thành của dãy núi Himalaya.

Các biển nội địa tại Bắc Mỹ như Biển nội địa miền Tây và tại châu Âu đã rút xuống vào đầu thế Paleocen, mở đường cho quần động và thực vật mới sống trên đất liền.

Quần thực vật

Địa tầng đất liền thế Paleocen nằm ngay trên ranh giới K-T tại các khu vực được đánh dấu bằng "dải dương xỉ": một tầng đặc biệt giàu hóa thạch dương xỉ. Các loài dương xỉ thường là những loài đầu tiên xâm chiếm các khu vực bị tổn thương do các vụ cháy rừng; vì thế dải dương xỉ có thể là sự chỉ ra của các phá hủy hậu núi lửa Chicxulub.

Nói chung, thế Paleocen được đánh dấu bằng sự phát triển của các loài thực vật hiện đại. Các loài xương rồng và cau, dừa đã xuất hiện. Các hóa thạch thực vật thế Paleocen và muộn hơn nói chung được quy là thuộc các chi thực vật hiện đại hay các đơn vị phân loại có quan hệ họ hàng rất gần.

Nhiệt độ ấm áp trên khắp thế giới đã làm xuất hiện các cánh rừng lá sớm rụng nhiệt đới hay cận nhiệt đới bao phủ khắp toàn cầu (các rừng mưa nhiệt đới hiện đại được công nhận đầu tiên) với các khu vực ven địa cực không bị băng bao phủ được che phủ bằng các loài cây thông hay có lá sớm rụng. Mãi cho tới thế Eocen (khoảng 55 Ma) thì các động vật có vú hiện đại thật sự mới phát triển.

Các chứng cứ hóa thạch thuộc thế Paleocen là khá hiếm và vì thế người ta còn biết rất ít về các động vật có vú của thời kỳ này. Do kích thước nhỏ của chúng—cố định cho đến cuối thế—nên xương của động vật có vú thời kỳ đầu không được bảo quản tốt trong các mẫu hóa thạch và phần lớn những gì ngày nay người ta biết được là từ các chiếc răng hóa thạch (thành phần bền hơn cả) và chỉ một ít bộ xương.

Động vật có vú thế Paleocen bao gồm:

  • Các loài động vật đơn huyệt (bộ Monotremata): Ba loài động vật đơn huyệt còn sống sót tới ngày nay: thú mỏ vịt và hai loài thú lông nhím (họ Tachyglossidae). Monotrematum sudamericanum đã sinh sống trong thế Paleocen.
  • Thú có túi (cận lớp Marsupialia): các loài kangaroo (chuột túi) hiện đại là các loài thú có túi, với đặc trưng nuôi con trong túi trước bụng cho đến khi chúng trưởng thành. Loài thú có túi Pucadelphys andinus ở Bolivia là một ví dụ về động vật thế Paleocen.
  • Bộ Multituberculata: là nhánh lớn duy nhất của động vật có vú đã bị tuyệt chủng. Nhóm thú tương tự như động vật gặm nhấm này bao gồm cả chi Ptilodus sống tại Bắc Mỹ trong khoảng thời gian thuộc thế Paleocen.
  • Thú có nhau (nhóm Placentalia/Eutheria): Nhóm này của động vật có vú đã trở thành nhóm đa dạng nhất và thành công nhất. Các thành viên của nhóm này bao gồm các loài động vật móng guốc, linh trưởng và động vật ăn thịt, chẳng hạn như động vật guốc chẵn ăn thịt (bộ Mesonychia) thế Paleocen.

    Bò sát

    Do điều kiện khí hậu của thế Paleocen, các loài bò sát đã phân bổ rộng rãi hơn nhiều so với ngày nay. Trong số các loài bò sát cận nhiệt đới tìm thấy ở Bắc Mỹ trong thế địa chất này có họ Champsosauridae (các bò sát thủy sinh tương tự như cá sấu Ấn Độ hiện đại), cá sấu thật sự, rùa, rắn cổ đại, kỳ đà và Protochelydra zangerli (tương tự như rùa nước ngọt ngày nay).

Các ví dụ về cá sấu cổ đại trong thế Paleocen bao gồm Champsosaurus gigas, loài cá sấu cổ lớn nhất đã phát hiện được. Loài này là bất thường trong số các bò sát của thế Paleocen ở chỗ C. gigas còn lớn hơn cả các tổ tiên đã biết của nó trong đại Trung Sinh. C. gigas dài gấp 2 lần các mẫu vật lớn nhất của kỷ Creta (3 m đối lại với 1,5 m của tổ tiên) trong khi các loài bò sát nói chung đều suy giảm kích thước sau sự kiện tuyệt chủng K-T. Các loài cá sấu cổ này vào cuối thế Paleocen đã suy giảm và trở thành tuyệt chủng vào cuối thế Eocen.

Các ví dụ về các loài cá sấu thật sự trong thế Paleocen là loài cá sấu Leidyosuchus formidabilis, động vật săn mồi hàng đầu và là động vật lớn nhất trong quần động vật suối Wannagan và dạng cá sấu agigator Wannaganosuchus. Khủng long có thể vẫn còn sống sót tới khoảng thời gian đầu tầng Đan Mạch của thế Paleocen, khoảng 64,5 Ma. Chứng cứ cho điều gây mâu thuẫn này là các mảnh xương chân của khủng long mỏ vịt (họ Hadrosauridae) tìm thấy trong các địa tầng thuộc thế Paleocen có niên đại khoảng 64,5 Ma tại Australia.

Chim

Chim bắt đầu đa dạng hóa trong thế này, chúng chiếm lĩnh các hốc sinh thái mới. Phần lớn các loại chim hiện đại dường như đã xuất hiện vào giữa đại Trung Sinh, bao gồm các loài chim sẻ (bộ Passeriformes), sếu (họ Gruidae), diều hâu (phân họ Accipitrinae), bồ nông (họ Pelicanidae), diệc (họ Ardeidae), cú (bộ Strigiformes), vịt (họ Anatidae), bồ câu (họ Columbiadae), chim lặn gavia (bộ Gaviiformes) và gõ kiến (phân họ Picinae).

Các loài chim ăn thịt lớn, không bay (gọi là chim kinh hoàng) cũng được tìm thấy trong các hóa thạch cuối thế Paleocen, bao gồm cả các loài chim gaston (chi Gastornis) tại châu Âu.

Các dạng cú thời kỳ đầu như Ogygoptynx (tại Hoa Kỳ) và Berruornis (tại Pháp) xuất hiện vào cuối thế Paleocen.

Đại dương

Các biểm ấm lưu thông vòng quanh thế giới, bao gồm cả hai địa cực. Thời kỳ đầu của thế Paleocen có sự đa dạng và phổ biến khá thấp của sự sống đại dương, nhưng xu hướng này đã bị đảo ngược trong các giai đoạn sau của thế . Các điều kiện nhiệt đới đã tạo điều kiện cho sự gia tăng của sự sống đại dương, bao gồm các bãi đá ngầm san hô. Với sự tiêu vong của các bò sát biển vào cuối kỷ Creta, cá mập trở thành động vật săn mồi hàng đầu. Vào cuối kỷ Creta, cũng diễn ra sự tuyệt chủng của cúc đá và nhiều loài trùng lỗ.

Quần động vật đại dương trở thành tương tự như ngày nay, chỉ có điều là vẫn chưa có các động vật có vú sống trong lòng đại dương và cá mập voi (bộ Carcharhiniformes).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thế Paleocen** hay **thế Cổ Tân** ("bình minh sớm của gần đây"), là một thế kéo dài từ khoảng 66,0 ± 0,3 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 56,0 ± 0,2 Ma. Nó là thế
**Khủng long thế Paleocen** là một thuật ngữ của các nhà khoa học dùng để chỉ một vài chi khủng long có một số ít quần thể vẫn còn sống sót trong thời gian đầu
**Thế Eocen** hay **thế Thủy Tân** (55,8 ± 0,2 – 33,9 ± 0,1 triệu năm trước (Ma)) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất và là thế thứ hai của
Trong địa chất học, một **thế** hay một **thế địa chất** là một đơn vị thời gian địa chất, phân chia các kỷ địa chất thành các khoảng thời gian nhỏ hơn, thường là vài
thumb|Bản vẽ của một nghệ sĩ về một [[tiểu hành tinh cách nhau vài km va chạm vào Trái Đất. Một tác động như vậy có thể giải phóng năng lượng tương đương với vài
thumb|GSSP đánh dấu ranh giới dưới của tầng Seland tại Itzurun, Tây Ban Nha **Tầng Seland** hay **Paleocen giữa** là một tầng của thế Paleocen. Nó kéo dài từ khoảng 61,6 ± 0,2 Ma tới
nhỏ|Hình ảnh phác hoạ Tầng Đan Mạch **Tầng Đan Mạch** (còn gọi là **tầng Mons** (tiếng Anh: Danian hay Montian) là tầng đầu tiên của thế Paleocen, tạo thành **phân thế Tiền Paleocen**. Sự bắt
**Tầng Thanet** (còn gọi là **tầng Landen** (Dumont, 1839) hay **tầng Heers** (Dumont, 1839) - lấy theo tên gọi của các làng nhỏ tương ứng ở đông bắc Bỉ) là tầng cuối cùng của thế
**_Abdounodus_** là một chi động vật có vú đã tuyệt chủng sống vào giữa thế Paleocen ở miền bắc châu Phi. Loài duy nhất của chi, _A. hamdii_, được phát hiện qua những mẫu vật
**_Titanoboa_** (nghĩa là "trăn khổng lồ") là một chi trăn từng sinh sống khoảng từ 60 tới 58 triệu năm trước sau thời điểm khủng long tuyệt chủng, trong thế Paleocen. Loài duy nhất đã
**Họ Cá đuôi gai** (tên khoa học: **_Acanthuridae_**) là một họ cá theo truyền thống được xếp trong phân bộ Acanthuroidei của bộ Cá vược (Perciformes). Họ này có khoảng 84 loài thuộc 6 chi,
nhỏ|phải|Hình ảnh Trái Đất chụp năm 1972. Biểu đồ thời gian lịch sử Trái Đất **Lịch sử Trái Đất** trải dài khoảng 4,55 tỷ năm, từ khi Trái Đất hình thành từ Tinh vân Mặt
Thuật ngữ **Pteridospermatophyta** (hay "**dương xỉ hạt**", "**dương xỉ có hạt**" hoặc "**Pteridospermatopsida**" hoặc "**Pteridospermae"**) được dùng để chỉ một vài nhóm khác biệt bao gồm các loài thực vật có hạt đã tuyệt chủng
phải **Laurasia** () là vùng đất nằm ở phía bắc trong số hai vùng đất bắt nguồn từ siêu lục địa Pangaea từ khoảng (Mya), vùng đất còn lại là Gondwana. Nó chia tách khỏi
**_Gastornis_** hay **_chim khổng lồ_** là một chi chim không bay được tuyệt chủng lớn sống vào cuối thế Paleocen và Eocen của Đại Tân sinh. Chi này được cho rằng gồm 3-4 loài, được
**Chim chuột** là nhóm các loài chim thuộc bộ **Coliiformes**, với các loài còn tồn tại hiện thuộc về họ duy nhất **Coliidae**. Chúng là nhóm chị em với nhánh Eucavitaves, gồm Leptosomiformes, Trogoniformes (nuốc),
**Kỷ Paleogen** (hay **kỷ Palaeogen**) còn gọi là **kỷ Cổ Cận**, là một đơn vị cấp kỷ trong niên đại địa chất, bắt đầu khoảng 65,5 ± 0,3 triệu năm trước (Ma) và kết thúc
**Condylarthra** là một bộ động vật có vú tuyệt chủng được biết đến chủ yếu từ các thế Paleocen và Eocene. Condylarthra là một trong những động vật có vú Paleocen đặc trưng nhất và
**Bộ Bạch quả** (danh pháp khoa học: **_Ginkgoales_**) là bộ thực vật hạt trần nằm trong lớp Bạch quả (_Ginkgoopsida_). Bộ này đã xuất hiện trong kỷ Jura (199,6 - 145,5 Ma) của đại Trung
**Họ Cá rồng**, là một họ cá xương nước ngọt với danh pháp khoa học **Osteoglossidae**, đôi khi còn gọi là "cá lưỡi xương" (cốt thiệt ngư). Trong họ cá này, đầu của chúng nhiều
nhỏ|Vách đá cao 20 mét ở vịnh São Marcos, Alcântara, bang Maranhão, Brazil. Trầm tích nhóm Barreiras, tuổi Paleogen. **Kỷ Đệ Tam** (**_Tertiary_**) đã từng là một đơn vị chính trong niên đại địa chất,
**Kỷ Neogen** () hay **kỷ Tân Cận** là một kỷ địa chất của đại Tân Sinh bắt đầu từ khoảng 23,03 ± 0,05 triệu năm trước (Ma). Kỷ Neogen diễn ra sau khi kỷ Paleogen
**Họ Cá khế** (danh pháp khoa học: **_Carangidae_**) là một họ cá đại dương, theo truyền thống xếp trong bộ Cá vược (Perciformes), nhưng gần đây được cho là xếp trong bộ Cá khế (Carangiformes)
**Họ Cá bướm** (tên khoa học **_Chaetodontidae_**) là một tập hợp các loài cá biển nhiệt đới dễ nhận rõ; **cá bướm cờ** (_bannerfish_) và **cá san hô** (_coralfish_) cũng được xếp vào họ này.
**Rhineuridae** là một họ trong nhóm Amphisbaenia (thằn lằn rắn, thằn lằn giun) và bao gồm chỉ 1 chi với 1 loài còn sinh tồn là _Rhineura floridana_, cũng như một số loài đã tuyệt
**Bộ Thỏ** (**Lagomorpha**) là một bộ động vật có vú bao gồm hai họ: Leporidae (thỏ và thỏ đồng) và Ochotonidae (thỏ cộc pika). Từ Lagomorpha được ghép từ hai từ tiếng Hy Lạp cổ
**Họ Chim nhiệt đới** (danh pháp khoa học: **_Phaethontidae_**) là một họ chim biển sinh sống ở vùng nhiệt đới. Họ này chỉ chứa 3 loài còn sinh tồn. Hiện tại, chúng được đặt trong
**Mesonychia** ("Móng vuốt giữa") là một đơn vị phân loại gồm các động vật móng guốc tuyệt chủng có kích thước trung bình đến lớn ăn thịt liên quan đến Artiodactyla. Mesonychia xuất hiện đầu
**_Taeniolabis_** là một loài động vật có vú trong họ thú Multituberculata đã tuyệt chủng từ thế Paleocen ở Bắc Mỹ. Đây là loài thú lớn nhất được biết đến trong nhóm loài Multituberculata đã
**Nam Á** (còn gọi là **tiểu lục địa Ấn Độ**) là thuật ngữ dùng để chỉ khu vực miền nam của châu Á, gồm các quốc gia hạ Himalaya và lân cận. Về mặt địa
**Rắn** là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài động vật bò sát ăn thịt, không có chân và thân hình tròn dài (hình trụ), thuộc phân bộ **Serpentes**, có thể phân biệt
thumb|alt=montage of four birds|[[Lớp Chim được xếp vào nhóm Dinosauria theo hệ thống phân loại sinh học áp dụng phương pháp phát sinh chủng loại.]] **Khủng long** là một nhóm bò sát thuộc nhánh **Dinosauria**,
**Bộ Gặm nhấm** (**_Rodentia_**) (từ tiếng Latin: "Rodere" nghĩa là "gặm") là một Bộ động vật có vú đặc trưng bởi một cặp răng cửa liên tục phát triển ở mỗi hàm trên và hàm
**Phân bộ Dạng mèo** (**_Feliformia_** hay **_Feloidea_**) là một phân bộ trong Bộ Ăn thịt (Carnivora), bao gồm các **thú ăn thịt "dạng mèo"** như các loài mèo (lớn và nhỏ), linh cẩu, cầy mangut,
**Bộ Guốc chẵn, bộ Móng chẵn** hay **bộ Móng guốc chẵn** (**_Artiodactyla_)** (từ tiếng Hy Lạp cổ đại ἄρτιος_, ártios_, nghĩa là 'chẵn', và δάκτυλος_, dáktylos_, nghĩa là 'móng, ngón'), hoặc **động vật móng guốc
**Chim cánh cụt** hay còn gọi là **chim cụt cánh** (bộ **Sphenisciformes**, họ **Spheniscidae** - lấy theo chi _Spheniscus_ nghĩa là _hình nêm_) là một nhóm chim nước không bay được. Chúng hầu như chỉ
**Kỷ Phấn trắng** hay **kỷ Creta** (phiên âm tiếng Việt: **Krêta**) là một kỷ địa chất chính trong niên đại địa chất, bắt đầu từ khi kết thúc kỷ Jura khoảng 145 triệu năm trước
Biểu đồ thang thời gian địa chất. **Lịch sử địa chất Trái Đất** bắt đầu cách đây 4,567 tỷ năm khi các hành tinh trong hệ Mặt Trời được tạo ra từ tinh vân mặt trời,
**_Abdounia_** là một chi cá mập mắt trắng đã tuyệt chủng sống ở kỷ Paleogen. Chúng được nghiên cứu dựa trên những mẫu vật răng. Các loài thuộc chi _Abdounia_ được xem là một trong
**Họ Đà điểu** (**Struthionidae**) là một họ chim không biết bay thuộc **Bộ Đà điểu** (**Struthioniformes**), gồm những loài đà điểu, và họ hàng đã tuyệt chủng của chúng. Hai loài đà điểu còn sinh
thumb|[[Tê giác trắng là động vật móng guốc lẻ lớn nhất.]] **Bộ Guốc** **lẻ, bộ Móng Lẻ** hay **bộ Móng guốc lẻ** **(_Perissodactyla_)** (từ tiếng Hy Lạp cổ đại, "περισσός _perissós_, "lẻ"; và δάκτυλος _dáktylos_,
**Tetrachondraceae** là một họ thực vật hạt kín thuộc bộ Lamiales, chứa 2 chi và 3 loài cây thân thảo mọc bò lan hay mọc thẳng, với các lá nhỏ mọc đối, không cuống nhiều
**Động vật móng guốc** hay còn gọi là **thú móng guốc** là một nhóm đa dạng của các động vật có vú (thú) lớn. Thú móng guốc gồm ba bộ: - Bộ Guốc chẵn: gồm
**Sarothruridae** là danh pháp khoa học của một họ chim, hiện chưa được công nhận trong _Handbook of the Birds of the World_ (HBW), nhưng được công nhận trong phiên bản 2015 của _The Clements
**Lemuriformes** hay còn gọi là **cận bộ Vượn cáo**, **phân thứ bộ Vượn cáo** là một cận bộ gồm các loài động vật có vú thuộc thuộc phân bộ Strepsirrhini của Bộ Linh trưởng. Chúng
Bản đồ kiến tạo Nam Âu và Trung Đông thể hiện các cấu trúc của phía tây [[vành đai Anpơ|vành đai dãy Anpơ.]] **Kiến tạo sơn Alpơ** là một pha tạo núi vào đại Trung
**Creodonta** là một bộ động vật có vú tuyệt chủng sống từ thế Paleocen đến thế Miocen. Creodonta có chung tổ tiên với Carnivora (bộ Ăn thịt). Creodonta là một nhóm động vật có vú
**_Alphadon_** (nghĩa "răng đầu tiên") là một chi động vật có vú nguyên thủy nhỏ, là một thành viên của metatheria, một nhóm động vật có vú gồm cả thú có túi ngày nay. Hóa
**_Coniophis_** là một chi rắn đã tuyệt chủng từ cuối kỷ Phấn Trắng. Chúng dài khoảng 7 cm và có hình dạng giống rắn, có răng cưa với hộp sọ và cấu trúc xương giống thằn
**Thông nước** hay **thủy tùng** (danh pháp hai phần: **_Glyptostrobus pensilis_**) là loài thực vật duy nhất còn tồn tại thuộc chi **_Glyptostrobus_**. Đây là loài đặc hữu của vùng cận nhiệt đới đông nam