✨Rắn

Rắn

Rắn là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài động vật bò sát ăn thịt, không có chân và thân hình tròn dài (hình trụ), thuộc phân bộ Serpentes, có thể phân biệt với các loài thằn lằn không chân bằng các đặc trưng như không có mí mắt và tai ngoài. Giống như các loài bò sát có vảy (Squamata) khác, rắn là động vật có xương sống, có màng ối, ngoại nhiệt với các lớp vảy xếp chồng lên nhau che phủ cơ thể. Nhiều loài rắn có sọ với nhiều khớp nối hơn các tổ tiên là động vật dạng thằn lằn của chúng, cho phép chúng nuốt các con mồi to lớn hơn nhiều so với đầu chúng với các quai hàm linh động cao. Để phù hợp với cơ thể thon và hẹp của mình, các cơ quan có cặp đôi của rắn được bố trí theo kiểu cái này nằm phía trước cái kia thay vì ngang hàng ở hai bên, và phần lớn các loài rắn chỉ có 1 phổi hoạt động. Một vài loài vẫn duy trì một đai chậu với 1 cặp vuốt dạng vết tích ở một trong hai bên của lỗ huyệt.

Các loài rắn còn sinh tồn đã được tìm thấy trên gần như mọi châu lục (ngoại trừ châu Nam Cực), trong lòng các đại dương như Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, và trên phần lớn các khối lục địa nhỏ hơn — các ngoại lệ bao gồm một số đảo lớn như Ireland và New Zealand, và nhiều đảo nhỏ trong Đại Tây Dương và Trung Thái Bình Dương. Trên 20 họ rắn hiện nay đang được công nhận, bao gồm khoảng 500 chi với khoảng 3.400 - 3.550 loài. Kích thước của chúng biến động từ nhỏ, như rắn chỉ (Leptotyphlops carlae) chỉ dài khoảng 10 cm cho tới lớn như trăn gấm (Python reticulatus) dài tới 8,7 m. Loài tìm thấy ở dạng hóa thạch là Titanoboa cerrejonensis dài tới 15 m. Người ta cho rằng rắn đã tiến hóa từ các loài động vật dạng thằn lằn hoặc là sống đào bới hoặc là thủy sinh trong giai đoạn Creta giữa, và các hóa thạch sớm nhất đã biết có niên đại khoảng 112 Ma. Sự đa dạng của rắn đã xuất hiện trong thế Paleocen (khoảng 66 tới 56 Ma).

Phần lớn các loài rắn không có nọc độc, còn những loài nào có nọc độc thì chủ yếu sử dụng nó vào việc giết chết hay khuất phục con mồi thay vì để phòng vệ. Một số loài có nọc độc mạnh tới mức đủ gây ra vết thương đau nhức hay gây tử vong cho con người. Các loài rắn không nọc độc hoặc là nuốt sống con mồi hoặc là giết nó bằng cách quấn và vặn xiết.

Từ nguyên

Trong tiếng Việt, từ rắn bắt nguồn từ *p-səɲʔ trong tiếng Việt-Mường nguyên thủy, chính nó lại bắt nguồn từ *(b)saɲʔ trong tiếng Nam Á nguyên thủy.

Trong tiếng Anh, từ snake bắt nguồn từ snaca trong tiếng Anh thượng cổ, chính nó phái sinh từ *snak-an- trong tiếng German nguyên thủy, gốc từ tiếng Proto-Ấn-Âu là *(s)nēg-o- 'bò, trườn', cũng chính là gốc của từ sneak 'lén lút' và từ nāgá 'rắn' trong tiếng Phạn. Một từ nữa cho rắn trong tiếng Anh là serpent được mượn từ tiếng Pháp, bắt nguồn từ tiếng Ấn-Âu nguyên thủy là *serp- 'trườn', cũng chính là gốc của từ ἕρπω (hérpō) 'Tôi bò' trong tiếng Hy Lạp cổ đại.

Tiến hóa

Lưu ý: Biểu đồ này chỉ chỉ ra các mối quan hệ chứ không chỉ ra khoảng thời gian tạo nhánh tiến hóa..

Hồ sơ hóa thạch rắn là khá nghèo nàn do các bộ xương rắn thông thường là nhỏ và dễ gãy, làm cho sự hóa thạch là không phổ biến. Các hóa thạch có thể được nhận dạng như là rắn (mặc dù thường vẫn duy trì các chi sau) lần đầu tiên xuất hiện trong hồ sơ hóa thạch trong kỷ Creta. Các hóa thạch rắn sớm nhất đã biết được tìm thấy tại các di chỉ trong khu vực Utah và Algérie, đại diện tương ứng cho các chi ConiophisLapparentophis. Các hóa thạch này được cho là có niên đại tương ứng với tầng Alba hay tầng Cenomanum (dù không chắc chắn lắm) vào cuối kỷ Creta, khoảng 112 tới 94 Ma. Tuy nhiên, niên đại thậm chí còn sớm hơn đã từng được đề xuất cho một trong các di chỉ tại Algérie, có thể cổ tới mức tương ứng với tầng Apt, 125 tới 112 Ma.

Dựa theo giải phẫu học so sánh, người ta có sự đồng thuận cho rằng rắn là hậu duệ của một nhóm thằn lằn. Người ta cũng cho rằng các loài trăn trong các họ Pythonidae và Boidae là các nhóm nguyên thủy nhất trong số các loài rắn hiện đại—chúng có các chi sau dạng vết tích: các ngón chân nhỏ xíu có vuốt gọi là các cựa hậu môn, được chúng sử dụng để bấu víu trong khi giao phối. Một loài rắn hóa thạch cổ, Najash rionegrina, là một động vật đào bới có hai chân với xương cùng, và sống hoàn toàn trên cạn. Một loài còn sinh tồn tương tự như tổ tiên giả định này là kỳ đà không tai (Lanthanotus borneensis) ở Borneo (mặc dù nó là động vật bán thủy sinh). Các loài sống ngầm dưới lòng đất đã tiến hóa để có một cơ thể thuôn dạng khí động học phục vụ cho việc đào bới, và cuối cùng đã mất đi các chi.

nhỏ|trái|Hóa thạch của Archaeophis proavus. ;Giả thuyết thương long thủy sinh Một giả thuyết khác, dựa vào hình thái học, cho rằng tổ tiên của rắn là có họ hàng với thương long (Mosasauridae)—một nhóm bò sát thủy sinh đã tuyệt chủng, từng sinh sống trong kỷ Creta—tới lượt chúng, thương long lại được coi là có nguồn gốc từ thằn lằn dạng kỳ đà (Varanoidea). Có nhiều hòn đảo không có rắn, như Ireland, Iceland và New Zealand

Phân loại

Tất cả các loài rắn hiện đại được gộp nhóm trong phân bộ Serpentes trong phân loại học Linnaeus, một phần của bộ Squamata (bò sát có vảy), mặc dù vị trí chính xác của chúng trong phạm vi bò sát có vảy vẫn là điều gây mâu thuẫn. Trong khi không còn loài nào sinh tồn ngày nay nhưng Madtsoiidae, một họ bao gồm các loài rắn khổng lồ; nguyên thủy; giống như trăn, đã từng sinh sống cho tới khoảng 50.000 năm trước tại Australia, với các chi như Wonambi.

Có nhiều tranh luận liên quan tới hệ thống học trong phạm vi nhóm này. Chẳng hạn, nhiều nguồn coi Boidae và Pythonidae chỉ là một họ trong khi quan hệ họ hàng của chúng không thực sự gần, trong khi lại coi Elapidae (rắn hổ) và Hydrophiidae (rắn biển) là các họ tách biệt vì các lý do thực tiễn trong khi quan hệ của chúng là rất gần gũi.

Các nghiên cứu phân tử gần đây hỗ trợ cho tính đơn ngành của nhánh chứa các loài rắn hiện đại, cũng như của hai nhánh Scolecophidia (Anomalepididae + (Leptotyphlopidae + (Gerrhopilidae + (Xenotyphlopidae + Typhlopidae)))) và Alethinophidia (Anilius + Alethinophidia phần lõi (Uropeltidae (Cylindrophis + Anomochilus + Uropeltinae) + Macrostomata (Tropidophiinae + Pythonidae + Caenophidia + Booidea (Boidae + Ungaliophiinae))).

Các họ

Sinh học

nhỏ|trái|Khi so sánh, bộ xương của rắn khác biệt rõ nét với bộ xương của phần lớn các loài bò sát khác (như [[rùa ở bên phải), được tạo thành gần như hoàn toàn như là một bộ khung xương sườn kéo dài.]]

Bộ xương

Bộ xương của phần lớn các loài rắn chỉ bao gồm sọ, xương móng, cột sống và các xương sườn, mặc dù các loài rắn thuộc nhánh Henophidia vẫn còn các vết tích của khung chậu và các chi sau. Sọ của rắn bao gồm một hộp sọ đặc và hoàn hảo, và nhiều xương khác chỉ gắn vào nó một cách lỏng lẻo, cụ thể là các xương hàm có độ linh động cao, tạo thuận lợi cho việc bắt giữ và nuốt các con mồi to lớn. Các bên trái và phải của hàm dưới chỉ được nối bằng một dây chằng dễ uốn vào các chóp trước, cho phép chúng tách rộng ra, trong khi các chóp sau của các xương hàm dưới nối khớp với xương vuông, tạo thêm tính cơ động. Các xương của hàm dưới và xương vuông cũng có thể thu nhận các rung động phát sinh từ mặt đất. Do các bên của xương hàm có thể di chuyển độc lập với nhau nên khi rắn đặt các quai hàm của nó trên một bề mặt thì nó có thính giác lập thể nhạy cảm giúp nó có thể phát hiện vị trí của con mồi. Lộ trình quai hàm-xương vuông-xương bàn đạp có khả năng phát hiện các rung động ở cấp độ angstrom, mặc cho sự thiếu vắng tai ngoài và cơ chế xương nhỏ thính giác của khớp trở kháng được sử dụng ở các động vật có xương sống khác để thu nhận các rung động từ không trung. Xương móng là một xương nhỏ nằm ở phía sau và trên mặt bụng của sọ, trong khu vực 'cổ', có tác dụng như một bộ phận gắn kết cho các cơ của lưỡi rắn, cũng giống như ở tất cả các động vật bốn chân khác.

Cột sống của rắn bao gồm khoảng 200 tới 400 (hoặc hơn) đốt sống. Các đốt sống đuôi là tương đối ít về số lượng (thường không quá 20% tổng số đốt sống) và không có xương sườn, trong khi các đốt sống phần thân đều có 2 xương sườn nối khớp với chúng. Các đốt sống đều có các phần lồi ra cho phép có sự kết nối với các cơ khỏe giúp cho việc di chuyển không cần tới chân. Sự tự đứt đuôi, một đặc trưng ở một số loài thằn lằn nói chung lại không có ở phần lớn các loài rắn. Sự tự đứt đuôi ở rắn là hiếm thấy và là liên đốt sống, không giống như ở thằn lằn là cơ chế nội đốt sống—nghĩa là sự ngắt đuôi xảy ra dọc theo một mặt phẳng đứt gãy được xác định trước và có sẵn trên đốt sống.

Ở một số loài rắn, đáng chú ý là các họ Boidae và Pythonidae, có các vết tích của các chi sau dưới dạng một cặp cựa khung chậu. Các phần thò ra nhỏ và giống như vuốt này ở mỗi bên của lỗ huyệt là phần bên ngoài của phần xương chi sau dạng vết tích, bao gồm các phần sót lại của xương chậu và xương đùi.

Nội tạng

Tim rắn được bao bọc trong một túi, gọi là màng ngoài tim, nằm ở chỗ rẽ đôi của phế quản. Tuy nhiên tim rắn có thể di chuyển vòng quanh do không có cơ hoành. Sự điều chỉnh này bảo vệ tim khỏi bị tổn thương khi con mồi nuốt vào là to lớn và trượt dọc theo thực quản. Lá lách gắn với túi mật và tụy, giúp lọc máu. Tuyến ức nằm trong mô mỡ phía trên tim, chịu trách nhiệm sản sinh các tế bào miễn dịch trong máu. Hệ tim mạch của rắn cũng là độc đáo ở chỗ có một hệ thống cổng thận, trong đó máu từ đuôi rắn di chuyển qua thận trước khi trở về tim. Ở phần lớn các loài rắn chỉ phổi phải là hoạt động. Phổi phải này bao gồm hai phần: phần trước có mạch máu dẫn tới, còn phần sau không có tác dụng trong trao đổi khí. và nặng tới 97,5 kg.

Ngược lại, ở đầu kia của dải kích thước, loài rắn nhỏ nhất còn sinh tồn là rắn giun Barbados (Leptotyphlops carlae), với chiều dài chỉ khoảng 10 cm (4 inch). Phần lớn các loài rắn là động vật tương đối nhỏ, dài khoảng 1 m (3 ft).

Da

phải|Vảy mắt thấy rõ trong lớp da lột của con [[trăn kim cương(Morelia spilota spilota).]] Da rắn được che phủ trong một lớp vảy sừng. Trái với ý niệm phổ biến cho rằng da rắn nhớt, có lẽ là do sự nhầm lẫn rắn với giun, trên thực tế da rắn nhẵn nhụi và khô. Phần lớn các loài rắn sử dụng các vảy bụng chuyên biệt hóa để di chuyển, bám lấy các bề mặt. Các vảy trên cơ thể rắn có thể là nhẵn nhụi, có gờ hay dạng hạt. Các mí mắt của rắn là các vảy sừng trong suốt, giống như "đeo kính", và các vảy này luôn luôn đóng kín, vì thế mà có thành ngữ "Thao láo như mắt rắn ráo".

Sự lột bỏ lớp vảy ở rắn gọi là lột xác. Trong trường hợp lột da ở rắn thì nguyên lớp da ngoài cùng bị lột bỏ. Các vảy của rắn không phải là rời rạc mà là sự mở rộng của lớp biểu bì—vì thế chúng không bị lột tách biệt mà như là một lớp ngoài cùng hoàn hảo trong mỗi lần lột xác, giống như việc người ta lột mặt trong của cái tất ra bên ngoài.

Hình dáng và số lượng vảy trên đầu, lưng và bụng thường là đặc trưng và được sử dụng vào mục đích phân loại. Các vảy được đặt tên chủ yếu theo vị trí của chúng trên cơ thể. Trong nhóm rắn "bậc cao" (Caenophidia), các vảy bụng rộng bản và các hàng vảy lưng tương ứng với các đốt sống, cho phép các nhà khoa học có thể đếm số lượng đốt sống mà không cần phải mổ xẻ.

Mắt rắn được che phủ bằng vảy trong suốt chứ không phải mí mắt có thể chuyển động. Vì thế mắt rắn luôn luôn mở, còn để ngủ thì võng mạc có thể khép lại hoặc rắn giấu đầu vào phần thân đã cuộn tròn.

Lột xác

Da rắn sau khi lột xác còn lại trên cành cây Sự lột xác (hay lột da) ở rắn phục vụ cho một loạt các chức năng. Trước hết,lớp da ngoài cũ kỹ và đã bị mòn được thay thế; thứ hai, nó giúp loại bỏ các động vật ký sinh như ve hay bét. Việc làm mới lớp da nhờ lột xác được cho là giúp đỡ cho quá trình phát triển ở một số động vật như côn trùng; tuy nhiên điều này có đúng như vậy hay không ở rắn thì vẫn là điều còn gây tranh cãi

Sự lột da xảy ra theo chu kỳ trong suốt cuộc đời rắn. Trước khi lột, rắn ngừng ăn uống và thường di chuyển tới hay ẩn nấp tại nơi an toàn. Ngay trước khi lột, lớp da ngoài trở nên xỉn màu và khô và hai mắt thì mờ đục hay xám xỉn. Mặt trong của lớp da cũ hóa lỏng làm cho lớp da cũ tách ra khỏi lớp da mới nằm ngay dưới nó. Sau vài ngày thì mắt trong trở lại và con rắn "trườn" ra khỏi lớp da cũ của nó. Lớp da cũ đứt ở phần gần miệng và rắn lách ra ngoài, hỗ trợ quá trình lột bỏ bằng cách cọ xát vào các bề mặt thô nhám. Trong nhiều trường hợp thì lớp da cũ bị lột ngược dọc theo thân từ đàu tới đuôi thành một tấm, giống như sự lột tất ngược từ trong ra ngoài. Lớp da mới, lớn hơn và sáng màu hơn đã được hình thành ngay phía dưới.

Những con rắn già chỉ lột da 1 tới 2 lần mỗi năm, nhưng những con rắn non còn đang lớn thì có thể lột da tới 4 lần mỗi năm. Lớp da bị loại bỏ giữ nguyên vẹn dấu vết của kiểu vảy, và thường thì có thể dùng nó để nhận dạng loài rắn đó nếu như lớp da bị loại bỏ này còn giữ được khá nguyên vẹn.

Giác quan

nhỏ|phải|Một con rắn đang cảm nhận sự vật thông qua cái lưỡi chẻ của nó ;Thị lực : Thị lực của các loài rắn nói chung không đồng nhất, dao động từ mức chỉ đủ phân biệt sáng tối cho tới mức có thị lực cao, nhưng xu hướng chung là thị lực của chúng mặc dù không thực sự sắc bén nhưng là đủ để cho phép chúng có thể theo dõi các chuyển động. Nói chung, thị lực của rắn tốt nhất ở các loài sống trên cây và kém nhất ở các loài đào bới. Một vài loài rắn, như rắn roi châu Á (chi Ahaetulla), có thị giác hai mắt, với cả hai mắt có khả năng tập trung vào cùng một điểm. Phần lớn các loài rắn nhìn tập trung vào một chỗ nào đó bằng cách di chuyển thủy tinh thể tới và lui so với võng mạc, trong khi ở các nhóm động vật có màng ối khác thì thủy tinh thể bị giãn ra. ;Mùi : Rắn sử dụng mùi để theo dõi con mồi của nó. Rắn ngửi mùi bằng cách dùng lưỡi chẻ của nó để thu thập các hạt có trong không trung, sau đó chuyển chúng cho cơ quan xương lá mía-mũi hay cơ quan Jacobson trong miệng để kiểm tra. Cái lưỡi chẻ đôi giúp cho rắn đồng thời cảm nhận trực tiếp cả mùi lẫn vị.

Nọc rắn là các hỗn hợp phức tạp của các protein, và được lưu trữ trong các tuyến độc ở phía sau đầu. Các protein này có thể là hỗn hợp thuộc các nhóm neurotoxin (tác động thần kinh), hemotoxin (tác động hệ tuần hoàn), cytotoxin (tác động tế bào), bungarotoxin (độc tố cạp nia) và nhiều loại độc tố khác có tác động tới cơ thể theo cách thức khác nhau. Điều này gây khó khăn cho cả con rắn trong việc sử dụng nọc của nó lẫn cho các nhà khoa học trong việc lấy nọc rắn. Phần lớn các loài rắn hiện tại được gán nhãn "không độc" có thể vẫn được coi là vô hại theo thuyết này, do chúng hoặc là không có phương thức truyền nọc hoặc là không đủ khả năng truyền một lượng nọc đủ để gây nguy hiểm cho con người. Thuyết này đưa ra định đề rằng rắn có thể đã tiến hóa từ một tổ tiên chung là động vật dạng thằn lằn có nọc—và rằng các loài thằn lằn có nọc như thằn lằn độc Gila (Heloderma suspectum), thằn lằn độc Mexico (Heloderma horridum), kỳ đà (Varanidae), cũng như thương long đã tuyệt chủng cũng có thể đã chuyển hóa. Chúng chia sẻ cùng một nhánh có nọc này với nhiều loài bò sát hai cung khác trong nhánh Sauria.

Các loài rắn có nọc độc về cơ bản được phân loại trong 2 họ:

  • Elapidae – Họ Rắn hổ, bao gồm rắn hổ mang (Naja), rắn hổ mang chúa (Ophiophagus hannah), rắn cạp nong (Bungarus fasciatus), rắn cạp nia (Bungarus spp.), rắn mamba (Dendroaspis spp.), rắn đầu đồng Úc (Austrelaps), rắn biển (Hydrophiinae) và rắn san hô (các chi Leptomicrurus, Micruroides, Micrurus), rắn lá khô (Calliophis). Do rắn không thể cắn hay xé thức ăn ra thành từng miếng nên chúng phải nuốt chửng nguyên cả con mồi. Kích thước cơ thể rắn có ảnh hưởng lớn tới tập tính ăn uống của nó. Các loài rắn nhỏ hơn thì ăn các con mồi nhỏ hơn. Chẳng hạn, những con trăn non có thể khởi đầu công việc ăn uống chỉ với những con thằn lằn hay chuột và dần dần tiến tới việc ăn những con hươu hay linh dương nhỏ cũng như trưởng thành.

Quai hàm của rắn là một cấu trúc phức tạp. Trái với niềm tin thông thường rằng rắn có thể bị trật khớp các quai hàm của nó, trên thực tế rắn có hàm dưới rất linh hoạt, hai nửa của nó không bị gắn cứng nhắc, với một loạt các khớp nối khác trong sọ rắn, cho phép rắn có thể há miệng đủ to để nuốt toàn bộ con mồi, ngay cả khi con mồi này có đường kính lớn hơn bề rộng cơ thể của rắn. Chẳng hạn, rắn ăn trứng châu Phi (Dasypeltis) có các quai hàm rất linh hoạt, thích nghi để ăn những quả trứng to hơn cả đường kính đầu nó.

Một số loài rắn có cú cắn chứa nọc độc được chúng dùng để giết chết con mồi trước khi ăn thịt nó. Một số loài rắn khác lại giết con mồi bằng cách quấn và siết chặt, Tiêu hóa là một hoạt động mãnh liệt, đặc biệt sau khi nuốt con mồi lớn. Ở những loài chỉ thỉnh thoảng mới ăn thì toàn bộ ruột co nhỏ lại giữa các bữa ăn để tiết kiệm năng lượng. Hệ tiêu hóa sau đó sẽ 'phình to' tới sức chứa tối đa trong vòng 48 giờ sau khi ăn con mồi. Là động vật ngoại nhiệt ("máu lạnh"), nhiệt độ môi trường xung quanh có vai trò lớn trong sự tiêu hóa của rắn. Nhiệt độ lý tưởng đối với rắn trong quá trình tiêu hóa là khoảng 30 °C (86 °F). Năng lượng trao đổi chất trong sự tiêu hóa của rắn nhiều tới mức như ở rắn đuôi chuông Mexico (Crotalus durissus) thì nhiệt độ bề mặt cơ thể tăng lên tới 1,2 °C (2,2 °F) trong quá trình tiêu hóa. Vì điều này, một con rắn bị quấy nhiễu ngay sau khi ăn thường sẽ nôn con mồi ra để có thể thoát khỏi mối đe dọa mà nó đã nhận thấy được. Khi không bị quấy nhiễu thì quá trình tiêu hóa có hiệu quả cao nhất, với các enzym tiêu hóa của rắn hòa tan và hấp thụ mọi thứ, ngoại trừ lông và móng vuốt của con mồi bị bài tiết ra ngoài dưới dạng chất thải.

Vận động

Không có chân không gây ra cản trở nào đối với sự vận động của rắn. Chúng đã phát triển một vài cách thức vận động khác nhau để giải quyết vấn đề trong từng môi trường cụ thể. Không giống như các dáng đi của các động vật có chân, là thứ tạo thành một thể liên tục, mỗi cách thức vận động của rắn là rời rạc và khác biệt với các cách thức còn lại; các chuyển tiếp giữa các cách thức là đột ngột.

Chuyển động sóng ngang

Chuyển động sóng ngang là cách thức duy nhất trong vận động trong môi trường nước, và cũng là cách thức vận động trên cạn phổ biến nhất. Cách thức di chuyển này có cùng một tiêu hao năng lượng ròng (lượng calo tiêu hao trên mỗi mét di chuyển) như kiểu chạy của những con thằn lằn có cùng khối lượng.

Trên cạn

Chuyển động sóng ngang trên cạn là cách thức vận động trên cạn phổ biến nhất đối với phần lớn các loài rắn.

Dưới nước

nhỏ|Rắn đẻn sọc, [[Laticauda|Laticauda sp.]] Khi bơi, các sóng trở nên lớn hơn khi chúng di chuyển xuống phía dưới thân rắn, và tốc độ truyền sóng về phía sau nhanh hơn tốc độ con rắn di chuyển về phía trước. Lực đẩy được sinh ra nhờ sự đẩy của thân rắn vào nước, thu được sự trượt được quan sát thấy. Mặc cho các điểm tương đồng tổng thể, các nghiên cứu chỉ ra rằng kiểu kích hoạt cơ trong môi trường nước là khác hẳn khi so với chuyển động sóng ngang trên cạn, và điều đó biện minh cho việc gọi chúng là các cách thức tách biệt. Tất cả các loài rắn đều có thể bò theo kiểu lượn sóng ngang về phía trước (với các sóng di chuyển về phía sau), nhưng chỉ có rắn biển mới có kiểu di chuyển đảo ngược (di chuyển về phía sau với các sóng di chuyển về phía trước).

Uốn lượn nghiêng

nhỏ|trái|[[Rắn chuông Mojave (Crotalus scutulatus) đang uốn lượn nghiêng.]] Kiểu di chuyển thường được các loài rắn trong siêu họ Colubroidea (các họ Colubridae, Elapidae và Viperidae) thực hiện khi phải di chuyển trong môi trường không có các điểm mấp mô để đẩy vào (trình diễn kiểu chuyển động sóng ngang là không thể), chẳng hạn như trên nền bùn trơn tuột hay trên cồn cát. Uốn lượn nghiêng là dạng biến đổi của chuyển động sóng ngang, trong đó tất cả các đoạn thân hướng theo cùng một hướng vẫn tiếp xúc với mặt nền trong khi các đoạn thân khác được nâng lên, tạo ra kiểu chuyển động "lăn ngang" kì dị. Cách thức vận động này khắc phục được bản chất trơn trượt của cát hay bùn bằng cách tựa vào chỉ các phần tĩnh tại trên cơ thể, bằng cách này giảm thiểu sự trơn trượt. Trong cách thức này, các vảy bụng được nâng lên và được kéo về phía trước, trước khi cơ thể được hạ xuống và được kéo qua chúng. Các sóng di chuyển và ngưng trệ chuyển về phía sau, tạo ra một chuỗi các sóng gợn trên da. Khi ở trên các cành cây, rắn sử dụng vài phương thức vận động, phụ thuộc vào kết cấu vỏ cây và tùy từng loài. Nói chung, rắn sẽ sử dụng dạng vận động concertina được biến đổi trên các cành cây nhẵn nhụi, nhưng sẽ sử dụng dạng chuyển động sóng ngang nếu có các tiếp điểm. Rắn di chuyển nhanh hơn trên các cành nhỏ và khi có các tiếp điểm, ngược lại với các động vật có chân, là những con vật di chuyển nhanh hơn trên các cành to với ít các 'mấu' hơn.

Các loài rắn cườm (Chrysopelea) ở Đông Nam Á phóng thân mình từ các đầu cành, trải rộng các xương sườn ra và chuyển động kiểu sóng ngang khi chúng lướt đi giữa các cây. Các loài rắn này có thể thực hiện sự lướt đi có kiểm soát tới hàng chục mét, phụ thuộc vào cao độ phóng và thậm chí có thể xoay mình trong không trung. Các bán dương vật thường xẻ khía, có móc hay có gai để kẹp vào vách lỗ huyệt của rắn cái. Một con trăn cái sẽ không rời ổ trứng, ngoại trừ thỉnh thoảng phải bò ra tắm nắng hay uống nước. Nó thậm chí còn "rùng mình" để sinh nhiệt nhằm ấp trứng. Gần đây người ta đã xác nhận rằng một vài loài rắn là động vật đẻ con thật sự, như Boa constrictor và trăn anaconda xanh (Eunectes murinus), nuôi con non của chúng thông qua nhau thai cũng như túi noãn hoàng, và điều này là rất bất thường ở các loài bò sát, cũng như ở bất cứ loài động vật nào khác không phải là cá mập trong họ Carcharhinidae hay thú có nhau thai (Eutheria). Ngoài ra còn có vô số biến thể trong các triệu chứng bị rắn độc thuộc các loài khác nhau cắn.]]

Rắn cắn

[[Vipera berus, một răng nọc cắn vào chiếc găng tay với vết nọc nhỏ.]] Thông thường rắn không tấn công con người, trừ khi bị giật mình hay bị thương. Nói chung phần lớn các loài rắn cố gắng tránh tiếp xúc khi đối mặt với con người. Ngoại trừ các loài trăn lớn, các loài rắn không có nọc độc không phải là mối đe dọa đối với người. Những vết cắn của rắn không nọc thường là vô hại do răng của chúng không được thiết kế để xé rách hay gây ra những vết thương sâu, mà là để tóm giữ. Tuy vậy vẫn có khả năng xảy ra tổn thương mô và nhiễm trùng từ những vết do rắn không nọc cắn. Ngược lại, rắn có nọc độc (rắn độc) lại tiềm ẩn nguy hiểm lớn hơn nhiều cho con người,

Việc xử lý vết rắn cắn cũng thay đổi tùy theo từng loại vết cắn. Phương pháp thông dụng và hiệu quả nhất là thông qua huyết thanh kháng nọc rắn (antivenom hay antivenin), một loại huyết thanh được chế ra từ nọc rắn. Một số loại antivenom là chuyên biệt theo loài (đơn hóa trị, đặc hiệu) trong khi một số khác được chế ra để sử dụng cho nhiều loài (đa hóa trị). Chẳng hạn tại Hoa Kỳ, gần như tất cả các loài rắn độc đều là rắn vipe hốc lõm (phân họ Crotalinae trong họ Viperidae), ngoại lệ duy nhất là các loài rắn san hô (các chi Micrurus, Micruroides thuộc họ Elapidae). Để sản xuất antivenom, hỗn hợp nọc của các loài rắn khác nhau như rắn chuông (Crotalus, Sistrurus), rắn đầu đồng (Agkistrodon contortrix) và rắn miệng bông (Agkistrodon spp.) được tiêm vào cơ thể ngựa với liều lượng tăng dần cho tới khi ngựa được miễn dịch. Sau đó máu được chiết ra từ ngựa đã miễn dịch. Huyết thanh được tách ra để tinh chế tiếp (để loại bỏ các protein ngoại lai) và sấy thăng hoa. Nó được hoàn nguyên với nước cất và trở thành huyết thanh kháng nọc rắn. Vì lý do này mà những người bị dị ứng với ngựa rất dễ bị dị ứng với huyết thanh kháng nọc rắn. Huyết thanh kháng nọc rắn cho những loài nguy hiểm hơn (như mamba (Dendroaspis), taipan (Oxyuranus) và rắn hổ mang (Naja)) được sản xuất theo phương pháp tương tự tại Ấn Độ, Nam Phi và Australia, mặc dù các loại huyết thanh kháng nọc rắn này là đặc hiệu theo loài.

Thôi miên rắn

nhỏ|trái|Một con [[rắn hổ mang Ấn Độ trong giỏ với người thôi miên rắn. Những con rắn hổ mang có lẽ là đối tượng phổ biến nhất trong thuật thôi miên rắn.]] Tại một vài nơi trên thế giới, đặc biệt tại Ấn Độ, thôi miên rắn là cuộc trình diễn ven đường do những người làm nghề thôi miên rắn trình diễn. Trong những cuộc trình diễn như vậy, người thôi miên rắn mang theo một chiếc giỏ chứa một con rắn để thực hiện việc dường như là ông ta thôi miên con rắn bằng cách thổi một số điệu nhạc du dương bằng một nhạc cụ dạng sáo để con rắn phản ứng theo. Sự thật thôi miên rắn là lừa đảo và tàn nhẫn với động vật, loài rắn không có tai ngoài và chẳng hề nghe thấy tiếng nhạc. Việc rắn phồng mang lên và đung đưa theo điệu nhạc chẳng qua vì nó coi chiếc kèn pungi là mối đe doạ và đang đứng lên trong tư thế phòng thủ. Nếu quan sát kĩ hơn, có thể thấy con rắn hổ mang chỉ nhìn chằm chằm vào nhạc cụ của các thầy "phủ thủy" – đặc biệt là chuyển động của ngón tay xung quanh chiếc kèn.

Thật ra rắn đã bị nhiều 'thầy' nhổ răng. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn, những thầy "phù thủy" sẽ nhổ răng nanh hoặc khâu kín miệng rắn. Đιềυ này vừa khiến việc thôi miên không gặp trở ngại vừa khiến họ thu được thêm lợi nhuận thông qua việc cho du khách tạo dáng chụp ảnh. Một con rắn bị nhổ răng. Số phận của những chú rắn không tốt đẹp như bạn tưởng tượng. Вị nhổ hết răng nanh, chúng sẽ mất đi khả năng ăn uống và chỉ sống được tối đa 2 tháng.

Luật bảo vệ động vật hoang dã năm 1972 của Ấn Độ về mặt kỹ thuật cấm thôi miên rắn trên cơ sở làm giảm sự đối xử độc ác với động vật. Những người thôi miên rắn khác còn trình diễn cuộc đấu giữa rắn với cầy mangut, trong đó cả hai con vật có một cuộc đấu giả vờ; tuy nhiên điều này là không phổ biến do cả rắn lẫn cầy mangut đều có thể bị thương nặng hay tử vong. Nghề thôi miên rắn tại Ấn Độ đang tàn lụi do sự cạnh tranh từ các dạng giải trí hiện đại cũng như do luật môi trường ngăn cấm việc hành nghề này.

Bên cạnh đó còn có những người bắt rắn chuyên nghiệp khác. Hành nghề bắt rắn ngày nay còn có các nhà bò sát học với công cụ là các cây sào dài với đầu sào hình chữ V. Một vài người dẫn chương trình truyền hình về động vật hoang dã, như Bill Haast, Austin Stevens, Steve Irwin, Jeff Corwin v.v. còn bắt rắn trực tiếp bằng tay không.

Tiêu thụ

nhỏ|"海豹蛇" ("hải báo xà", có lẽ là loài [[Enhydris bocourti) chiếm vị trí trang trọng trong số các đặc sản tươi sống bên ngoài một khách sạn ở Quảng Châu.]] nhỏ|trái|Một chai rượu rắn Trong khi đa phần các nền văn hóa không dùng rắn làm thực phẩm thì tại một số quốc gia việc sử dụng rắn làm thực phẩm lại được chấp nhận hay thậm chí còn được coi là đặc sản, do các thức ăn chế biến từ rắn được đánh giá cao về tác dụng y học. Món xúp rắn trong ẩm thực Quảng Đông được người dân tại đây dùng trong mùa thu do họ coi nó có tác dụng làm ấm cơ thể. Trong các nền văn hóa phương Tây thì việc ăn thịt rắn cũng từng xảy ra khi gặp phải những năm đói kém. Việc ăn thịt rắn chuông đã nấu chín là một ngoại lệ, với việc tiêu thụ nói chung phổ biến tại các khu vực ở miền trung tây nước Mỹ. Tại các quốc gia châu Á, như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam và Campuchia, việc uống rượu pha tiết rắn—cụ thể là rắn hổ mang—được cho là làm gia tăng khả năng tình dục. Việc lấy tiết rắn được thực hiện khi con rắn còn sống và nó được pha với một vài loại rượu mạnh hay rượu mùi để cải thiện mùi vị.

Các học viên của lực lượng đặc nhiệm Quân đội Hoa Kỳ cũng được huấn luyện bắt, giết và ăn thịt rắn để có thể sống sót trong các hoàn cảnh đặc biệt; và điều này đã làm người ta gán cho họ tên hiệu là "snake eaters" (những kẻ ăn rắn).

Rượu rắn (蛇酒; xà tửu) là loại rượu ngâm nguyên cả con rắn trong các loại rượu sản xuất từ gạo hay ngũ cốc. Việc uống rượu rắn tại Trung Quốc lần đầu tiên được ghi chép lại có từ thời Tây Chu và được coi là có tác dụng chữa bệnh và làm cường tráng cơ thể theo y học cổ truyền Trung Hoa.

Động vật cảnh

Tại phương Tây, một vài loài rắn (đặc biệt là các loài dễ thuần hóa như trăn hoàng gia (Python regius) và rắn săn chuột đỏ (Pantherophis guttatus) được nuôi làm động vật cảnh. Để đáp ứng nhu cầu này một ngành công nghiệp nuôi nhốt động vật bò sát đã phát triển. Các loại rắn sinh đẻ nuôi nhốt có xu hướng dễ nuôi làm động vật cảnh hơn so với các loại rắn bắt được trong tự nhiên. Rắn cảnh dễ nuôi hơn so với nhiều loại động vật cảnh truyền thống khác do chúng không cần nhiều không gian (do phần lớn rắn cảnh không dài quá 1,5 m và chúng cũng không cần phải cho ăn uống quá thường xuyên (thường chỉ một lần trong vòng 5-14 ngày). Một vài loại rắn cảnh có thể sống trên 40 năm nếu được chăm sóc chu đáo.

Văn hóa

Biểu tượng

nhỏ|phải|Họa phẩm về Eve và con rắn trong vườn địa đàng Trong lịch sử Ai Cập, rắn có một vai trò quan trọng với rắn hổ mang sông Nil trang điểm cho vương miện của các pharaoh trong thời kỳ cổ đại. Nó được tôn thờ như là một vị thần và từng được sử dụng cho các mục đích độc ác: nó là kẻ sát nhân trong một vụ tự sát theo nghi lễ của Cleopatra.

Trong thần thoại Hy Lạp rắn thường gắn với các địch thủ nguy hiểm chết người, nhưng điều này không có nghĩa rằng rắn là biểu tượng của điều ác độc; trên thực tế rắn là biểu tượng gắn liền với đất hay âm phủ. Con rắn chín đầu Lernaean Hydra mà Hercules đánh bại và ba chị em Gorgon đều là con của Gaia, nữ thần đất. Medusa là một trong số ba chị em Gorgon mà Perseus đã đánh bại. Rắn hổ mang có trên cổ thần Shiva còn thần Vishnu thường được vẽ trong tư thế đang ngủ trên con rắn bảy đầu hoặc với các cuộn rắn. Có một số đền miếu tại Ấn Độ chỉ dành cho rắn hổ mang, đôi khi được gọi là Nagraj (vua rắn) và người ta tin rằng rắn là biểu tượng của sự trù phú. Có một lễ hội Hindu gọi là Nag Panchami mỗi năm (tổ chức vào ngày thứ năm sau ngày Amavasya của tháng Shraavana), trong ngày đó những con rắn được tôn thờ và vái lạy. Xem thêm Nāga.

Tại Ấn Độ còn có truyền thuyết khác về rắn. Nói chung được biết đến như là những con rắn "Ichchhadhari" trong tiếng Hindi. Những con rắn này có thể có hình dáng của bất kỳ sinh vật nào, nhưng thích biến hình thành dạng người. Những con rắn thần bí này chiếm giữ viên ngọc quý gọi là "Mani" quý báu hơn cả kim cương. Có nhiều câu chuyện cổ tích tại Ấn Độ kể về những kẻ tham lam cố đoạt viên ngọc quý này và đều có chung một kết cục là bị giết chết.

Ouroboros là biểu tượng gắn với nhiều tôn giáo và tập quán khác nhau, và được coi là có liên quan tới giả kim thuật. Ouroboros hay Oroboros là con rắn hay con rồng cắn đuôi của chính nó theo chiều kim đồng hồ (tính từ đầu tới đuôi) vẽ thành vòng tròn, tượng trưng cho chu trình sống, chết và tái sinh, dẫn tới sự bất tử.

Tị là một trong số 12 địa chi của Thiên Can Địa Chi, trong lịch Trung Quốc.

Nhiều nền văn hóa Peru cổ đại thờ phụng thiên nhiên. Người dân của các nền văn hóa này đề cao các con vật và thường vẽ các con rắn trong các bức họa của mình.

Các nhân vật phim hoạt hình

Trăn Ấn Độ Kaa (The Jungle Book) Rắn lục xanh Master Viper (Kungfu Panda 1-2-3) Trăn xiết mồi Savio (Penguins Of Madagascar) Rắn hổ mang Ai Cập Ushari (The Lion Guard) *Phù thủy Jafar hòa thành rắn hổ mang (Aladdin) (1992)

Sử dụng trong show

Trăn và rắn lục được sử dụng làm xiếc và các game show đòi hỏi sự gan dạ.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Rắn** là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài động vật bò sát ăn thịt, không có chân và thân hình tròn dài (hình trụ), thuộc phân bộ **Serpentes**, có thể phân biệt
**Con rắn** là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn này đã được kết hợp với một số các nghi lễ
**Rắn hổ mang chúa** (danh pháp hai phần: **_Ophiophagus hannah_**), hay **hổ mang vua** là loài rắn độc thuộc họ Elapidae (họ Rắn hổ), phân bố chủ yếu trong các vùng rừng rậm trải dài
**Rắn cắn** là thuật ngữ đề cập đến những trường hợp con người bị loài rắn tấn công. Thông thường rắn không tấn công con người, trừ khi bị giật mình hay bị thương. Nói
**Nọc rắn** hay **nọc độc rắn** là tuyến chứa các chất độc của các loài rắn độc. Nọc, cũng giống như các loại dịch tiết dạng nước bọt khác, là chất tiền tiêu hóa để
**Rắn mamba đen** (danh pháp hai phần: **_Dendroaspis polylepis_**) là một loài rắn độc đặc hữu tại châu Phi hạ Sahara. Tên gọi phổ biến của loài này không bắt nguồn từ màu sắc vảy
**Nuôi rắn** là việc thực hành nuôi các loài rắn (bao gồm cả trăn) để lấy sản phẩm từ chúng đặc biệt là da rắn, nọc rắn và thịt rắn. Những quốc gia nuôi rắn
nhỏ|300x300px|Dạng tinh thể đơn của [[insulin rắn.]] **Chất rắn** dạng vật chất khác chất lỏng (các trạng thái khác là chất lỏng, chất khí và plasma). So với các trạng thái vật chất kia, các
**Họ Rắn hổ** (danh pháp khoa học: **_Elapidae_**) là một họ rắn thuộc phân bộ Rắn (Serpentes) trong nhánh Ophidia. Theo truyền thống chỉ bao gồm các loài rắn độc sống ở cạn, nhưng gần
**Rắn hoa cỏ cổ đỏ** (danh pháp hai phần: _Rhabdophis subminiatus_) là động vật bò sát chi Rắn hoa cỏ họ Rắn nước, tên dân gian **rắn cổ trĩ đỏ**, **rắn nước cổ đỏ**, **rắn
nhỏ|phải|Cầy Meerkat được biết đến là săn bắt và ăn những con rắn nhỏ **Động vật ăn rắn** hay còn gọi là **Ophiophagy** (tiếng Hy Lạp: ὄφις + φαγία có nghĩa là "_ăn con rắn_")
nhỏ|phải|Nhiều người sợ khi trông thấy rắn **Hội chứng sợ rắn** hay **nỗi sợ rắn** (tiếng Anh: ophidiophobia) là một hội chứng tâm lý của con người có đặc trưng là nỗi ám ảnh về
nhỏ|300x300px| [[Space Shuttle|Phi thuyền không gian được phóng đi nhờ 2 tầng đẩy nhiên liệu rắn, hay còn gọi là SRBs]] Một **Tên lửa đẩy nhiên liệu rắn** là tên lửa có động cơ sử
**Gà rán miền Nam Hoa Kỳ**, hay còn gọi là **gà rán**, là một món ăn xuất xứ từ miền Nam Hoa Kỳ; nguyên liệu chính là những miếng thịt gà đã được lăn bột
**Chi Rắn hoa cỏ** (danh pháp khoa học: **_Rhabdophis_**) là một chi trong họ Rắn nước (Colubridae), được tìm thấy chủ yếu tại Đông Nam Á. ## Các loài 26 loài được The Reptile Database
nhỏ|phải|Một miếng thịt rắn nhỏ|Hải báo xà (海豹蛇) có lẽ là loài _[[Enhydris bocourti_) chiếm vị trí trang trọng trong số các đặc sản tươi sống bên ngoài một khách sạn ở Quảng Châu.]] **Thịt
**Rắn lục Gaboon** (danh pháp hai phần: **_Bitis gabonica_**) là một loài rắn lục có độc thuộc phân họ Viperinae phân bố tại rừng mưa và trảng cỏ tại châu Phi hạ Sahara. Đây là
**Rắn hổ mang rừng rậm** (danh pháp hai phần: _Naja melanoleuca_), còn được gọi là **rắn hổ mang đen** (_black cobra_) hay **rắn hổ mang môi đen trắng** (_black and white-lipped cobra_), Danh pháp chi
**Rắn hổ mang** là tên gọi chung của nhiều rắn độc thuộc họ Rắn hổ, hầu hết trong số đó thuộc chi _Naja_. ## Sinh thái Tất cả các loài rắn hổ mang đều có
alt=A beige-colored snake slithers on a branch, among leafy vegetation.|_[[Corallus ruschenbergerii_, đầm lầy Caroni, Trinidad]] Trinidad và Tobago là khu vực có số loài rắn đa dạng nhất vùng Caribbean, với 47 loài đã được
**Chi Rắn má** (danh pháp khoa học: **_Opisthotropis_**) là một chi trong họ Rắn nước (_Colubridae_), chứa khoảng 19-21 loài rắn má (tùy theo hệ thống phân loại), sinh sống trong khu vực ven các
thumb|Rắn độc nhất thế giới, theo tiêu chuẩn , là [[Oxyuranus microlepidotus.]] **Rắn độc** là các loài rắn có nọc độc, chúng sử dụng nước bọt, chất độc tiết qua những chiếc nanh trong miệng
**Rắn biển** là một nhóm rắn có nọc độc sinh sống trong môi trường biển hay sinh sống phần lớn thời gian trong môi trường biển, mặc dù chúng đã tiến hóa từ tổ tiên
Trong cơ học, **vật rắn**, hay đầy đủ là **vật rắn tuyệt đối**, là một tập hợp vô số các chất điểm mà khoảng cách giữa hai điểm bất kỳ luôn luôn không đổi. Vật
**Chim cổ rắn** là các loài chim trong họ **Anhingidae**, bộ Chim điên (trước đây xếp trong bộ Bồ nông). Hiện nay còn tồn tại tổng cộng 4 loài trong một chi duy nhất, một
**Giới răn trọng nhất** là thuật ngữ được sử dụng để mô tả hai điều răn được Chúa Giêsu cho là quan trọng nhất dành cho mỗi người, được tường thuật trong Mátthêu 22:35-40, Máccô
**Chi Rắn bồng** (danh pháp khoa học: **_Enhydris_**) là một chi rắn có nọc nhẹ, theo truyền thống xếp trong phân họ Homalopsinae của họ Rắn nước (Colubridae), nhưng gần đây phân họ này đã
**Rắn chàm quạp**, hay còn gọi là **rắn lục nưa**, **rắn cà tên**, **rắn cà tênh**, **rắn lục Malaysia**, danh pháp hai phần: _Calloselasma rhodostoma,_ là một loài rắn độc thuộc chi _Calloselasma_ thuộc phân
nhỏ|phải|Gà rán Hàn Quốc **Gà rán Hàn Quốc** còn gọi là **chikin** (tiếng Hàn: 치킨) hay **Dakgangjeong** là một món gà rán có nguồn gốc từ Hàn Quốc. Đây là là món gà rán giòn
**Họ Rắn ri** (danh pháp khoa học: **_Homalopsidae_**) là một họ rắn, theo truyền thống được coi là một phân họ với danh pháp **_Homalopsinae_** trong họ Rắn nước (Colubridae). Họ này theo truyền thống
**Trại rắn Đồng Tâm**, hay còn có tên khác là **Trung tâm Nuôi trồng Nghiên cứu Chế biến Dược liệu Cục hậu cần Quân khu 9**, nằm tại xã Bình Đức, huyện Châu Thành, tỉnh
**Rắn lục Russell** (danh pháp hai phần: **_Daboia russelii_**) là một loài rắn độc trong chi _Daboia_ rắn độc Cựu Thế giới. Nó là một thành viên của nhóm Tứ đại rắn độc Ấn Độ.
**Rắn đuôi chuông** hay **rắn chuông** hay **rắn rung chuông** hay là một nhóm các rắn độc thuộc các chi _Crotalus_ và _Sistrurus_ thuộc phân họ _Crotalinae_ ("rắn hang") với đặc điểm chung là cái
**Rắn ăn trứng châu Phi** (_Dasypeltis_) là một trong hai loài rắn ăn trứng thuộc phân loại rắn sống phụ thuộc hoàn toàn vào thức ăn là trứng (cùng với rắn ăn trứng Ấn Độ).
**Rắn Mamba** (Danh pháp khoa học: _Dendroaspis_) là một chi rắn trong họ rắn Elapidae. Các loài trong chi này có đặc điểm là những con rắn chuyển động nhanh, bò trên mặt đất hoặc
thumb|Nam giới người Do Thái không được cắt tóc ở vùng thái dương Truyền thống coi **613 điều răn** (: _taryag mitzvot_, "613 mitzvot") là số lượng điều răn (mitzvot) có trong Kinh thánh Torah
**Đá rắn** hay **đá hút nọc rắn**, còn được gọi là **đá viper**, **ngọc rắn**, **đá đen** (**black stone** - BS), **đá serpent** (đá rắn lớn), hoặc **nagamani** là xương hoặc đá động vật được
**Rắn ráo** (danh pháp hai phần: **_Ptyas korros_**) hay còn gọi **ngù thinh** (người Tày), **ngù sla** (người Nùng) ## Sinh thái và tập tính Rắn ráo sống trong rừng, trảng cỏ, bụi ven đường
**Rắn mống** hay **Rắn hổ hành** (danh pháp khoa học: **_Xenopeltis unicolor_**) là một loài rắn thuộc họ Rắn mống. Loài rắn có lớp vảy phát ra ngũ sắc dưới ánh nắng. ## Miêu tả
**Rắn mamba lục miền đông** (danh pháp hai phần: _Dendroaspis angusticeps_) là một loài rắn rất độc sống trên cây ở châu Phi có kích cỡ từ vừa đến lớn trong họ Elapidae. Loài rắn
**Rắn cạp nia bắc** hay **rắn cạp nia Trung Quốc**, **rắn mai gầm bạc**, **cạp nia miền bắc**, **cạp nia Đài**, **kim tiền bạch hoa xà**, **rắn hổ khoang**, **rắn vòng bạc** **ngù cáp tan**
**Rắn chuột** hay **rắn săn chuột** là các loài rắn trong họ rắn nước phân bố ở Bắc Bán cầu có tập tính thường xuyên săn bắt những động vật gặm nhấm nhỏ (chủ yếu
**Phân họ Rắn hổ xiên** (danh pháp khoa học: **_Pseudoxenodontinae_**) là một phân họ nhỏ trong họ Colubridae, gồm khoảng 10 loài trong 2 chi. ## Đặc điểm ## Phân bố Phân họ này được
**Rắn hổ mang Trung Quốc**, hay còn gọi là **rắn hổ mang Đài Loan**, **rắn hổ mang bành**, **rắn hổ mang thường** (danh pháp hai phần: _Naja atra_) là một loài rắn độc thuộc họ
**Tứ đại rắn độc** là 4 loài rắn ở Ấn Độ, là nguyên nhân gây ra hầu hết các vụ rắn cắn tử vong ở Ấn Độ hằng năm, gồm: rắn hổ mang Ấn Độ,
**_Hydrophis belcheri_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được John Edward Gray mô tả khoa học đầu tiên năm 1849. Loài này rụt rè và thông thường chỉ cắn người khi
**Rắn râu** (danh pháp hai phần: **_Erpeton tentaculatum_**) là một loài rắn bản địa Đông Nam Á, theo truyền thống được xếp trong phân họ Homalopsinae của họ Colubridae, nhưng gần đây được coi là
**Phân họ Rắn rồng** (danh pháp khoa học: **_Sibynophiinae_**) là một phân họ nhỏ trong họ Colubridae, gồm khoảng 11 loài trong 2 chi. Nhóm này cũng từng được gọi là **_Scaphiodontophiinae_** nhưng do tên
**Rắn giun thường** (danh pháp hai phần: **_Ramphotyphlops braminus_**) là một loại bò sát thuộc họ Rắn giun (Typhlopidae). Bề ngoài giống như giun đất trưởng thành nên thường bị nhầm lẫn là giun, ngoại
**Rắn taipan nội địa** (_Oxyuranus microlepidotus_) là loài bản địa Úc và được xem là loài rắn độc nhất trong tất cả các loài rắn trên cạn căn cứ vào liều gây chết trung bình