✨Rắn hổ mang chúa
Rắn hổ mang chúa (danh pháp hai phần: Ophiophagus hannah), hay hổ mang vua là loài rắn độc thuộc họ Elapidae (họ Rắn hổ), phân bố chủ yếu trong các vùng rừng rậm trải dài từ Ấn Độ đến Đông Nam Á. Loài rắn này đang bị đe dọa do mất môi trường sống và được liệt kê là loài sắp nguy cấp trong sách đỏ IUCN từ năm 2010. Đây là 1 trong 4 loài thuộc chi Ophiophagus theo thông tin mới cập nhật vào năm 2024 bao gôm Ophiophagus Hannah, Ophiophagus Salvatana, Ophiophagus Bungarus, Ophiophagus Kaalinga.
Rắn hổ mang chúa được đánh giá là loài nguy hiểm và đáng sợ trong phạm vi sinh sống của chúng, mặc dù loài rắn này không chủ động tấn công con người. Rắn hổ mang chúa có vị trí nổi bật trong tôn giáo, thần thoại và tín ngưỡng truyền thống dân gian tại nhiều quốc gia Nam Á và Đông Nam Á. Đây là loài vật thiêng được tôn sùng trong văn hóa Hindu giáo và là loài bò sát quốc gia của Ấn Độ.
Phân loại
Năm 1836, nhà sinh vật học người Đan Mạch Theodore Edward Cantor miêu tả bốn mẫu vật rắn hổ mang chúa lần đầu tiên với danh pháp khoa học là Hamadryas hannah, ba mẫu được bắt giữ ở Sundarbans và một mẫu ở vùng lân cận gần Kolkata. Năm 1837, danh pháp Naja bungarus được Hermann Schlegel đề xuất nhằm mô tả một mẫu động vật học về rắn hổ mang chúa trên đảo Java. Năm 1838, Cantor đề xuất danh pháp Hamadryas ophiophagus cho loài này và diễn giải rằng loài có đặc điểm răng miệng trung gian giữa hai chi Naja và Bungarus. Năm 1840, danh pháp Naia vittata được Walter Elliot đề xuất dành cho một cá thể rắn hổ mang chúa bị bắt ngoài khơi gần Chennai. Năm 1858, danh pháp Hamadryas elaps được Albert Günther đề xuất dành cho những mẫu vật rắn hổ mang chúa tại Philippines và đảo Borneo. Günther xem xét gộp chung cà hai loài N. bungarus và N. vittata thành H. elaps. Chi Ophiophagus được Günther đề xuất vào năm 1864. Danh pháp được đặt dựa tiếng Hy Lạp cổ mang nghĩa đen là con vật ăn thịt rắn. Đến năm 1882, danh pháp Naja ingens được Alexander Willem Michiel van Hasselt đề xuất dành cho một cá thể loài này bị bắt gần Tebing Tinggi tại miền bắc đảo Sumatra.
Năm 1945, Ophiophagus hannah đã được Charles Mitchill Bogert chấp nhận sử dụng làm danh pháp hợp lệ cho rắn hổ mang chúa, ông cho rằng loài rắn này khác biệt đáng kể với những loài thuộc chi Naja. Một phân tích di truyền sử dụng sắc tố tế bào b và phân tích đa gen cho biết rắn hổ mang chúa là một nhánh ban đầu của dòng dõi di truyền sản sinh ra rắn mamba, chứ không phải rắn hổ mang Naja. Một phân tích phát sinh loài từ DNA ty thể cho biết rằng mẫu vật tại tỉnh Surattani và Nakhon Si Thammarat ở miền nam Thái Lan tạo nên một nhánh khác biệt sâu sắc với mẫu vật tại miền bắc Thái Lan, gộp nhóm với mẫu vật từ Myanmar và Quảng Đông ở miền nam Trung Quốc.
Ngoại hình
Kích thước
Rắn trưởng thành đạt trung bình với chiều dài khoảng và cân nặng khoảng . Trong lịch sử, mẫu vật dài nhất được biết đến lưu giữ tại sở thú London, phát triển chiều dài khoảng trước khi chết nhân đạo do đúng thời điểm bùng nổ ra Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào năm 1951, một con rắn hổ mang chúa có chiều dài và cân nặng , được bắt sống trên bãi chơi gôn "Royal Island Club" tại Singapore và sau đó được đưa đến bảo tàng Raffles. Dưới bụng có 240 đến 254 vảy hình bầu dục đều nhau. Phần cổ họng có màu vàng sáng hoặc màu kem. Dấu hiệu đầu tiên báo hiệu rắn chuẩn bị bước vào thời kỳ lột da là đôi mắt. Đôi mắt không còn trong suốt mà biến thành màu sữa đục. Đến khi đôi mắt trong trở lại là rắn bắt đầu lột xác. Rắn chà xát cơ thể mình vào bề mặt, góc cạnh thô ráp. Chúng cần khoảng 10 ngày để lột bỏ hết lớp da cũ. Giác quan này cũng giống như khứu giác ở người. Khi phát hiện mùi vị con mồi, rắn sẽ rung động nhẹ chiếc lưỡi để nhận biết vị trí con mồi (cặp nhánh chẻ của lưỡi phát ra âm thanh). Rắn khá nhạy cảm với rung động mặt đất nhằm theo dõi con mồi. Với cấu trúc bộ răng proteroglyph, nghĩa là sở hữu cặp răng nanh ngắn cố định tại hàm trên, phía trước miệng. tạo thành hình dạng như mui xe phía trước cơ thể, giúp ngụy trang thân hình lớn hơn bình thường nhằm đe dọa đối phương.
Phân bố và môi trường sống
Rắn hổ mang chúa phân bố trong tự nhiên tại các quốc gia Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Bangladesh, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore. Tại đông bắc Ấn Độ, rắn hổ mang chúa phân bố tại Tây Bengal, Sikkim, Assam, Meghalaya, Arunachal Pradesh, Nagaland, Manipur và Mizoram. Tại dãy núi Ghat Đông, chúng sinh sống ở Tamil Nadu và Andhra Pradesh đến duyên hải Odisha và cả ở Bihar và miền nam Tây Bengal, đặc biệt ở Sundarban. Loài này cũng xuất hiện trên đảo Baratang thuộc chuỗi Đại Andaman.
Tại Việt Nam, rắn hổ mang chúa phân bố tại các tỉnh Cao Bằng, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Ninh Bình, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Phú Yên, Ninh Thuận, Gia Lai, Kon Tum, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tại Singapore, rắn hổ mang chúa tìm được tại khu bảo tồn thiên nhiên trung lưu vực, tổ hợp vườn thú Singapore, vùng Kranji (gồm có khu bảo tồn đất ngập nước Sungei Buloh, lưu vực phía tây và Sentosa) và Pulau Tekong. Loài này có thể bơi qua eo biển Johor hẹp, giáp với bán đảo Mã Lai ở phía bắc, để tiến vào Singapore. Sinh cảnh của loài có phạm vi từ vùng đất thấp lên đến địa hình có độ cao vượt qua 2000 m so với mực nước biển. Gồm có rừng rậm cao nguyên, rừng mưa nhiệt đới, rừng cận nhiệt đới, rừng thưa, rừng tre, đồng cỏ, đất ngập nước, đầm lầy, rừng ngập mặn, vùng cây bụi hay khu vực nông nghiệp. Vài cá thể hổ mang chúa trong nghiên cứu khá kén ăn, chúng phát triển chế độ ăn khắt khe khi chỉ ăn một loài rắn duy nhất, không ăn bất cứ loài nào khác. Khi đối mặt, rắn hổ mang chúa sẽ nâng phần trước (thường là 1/3) cơ thể lên (khoảng 1,5 m) Chúng có thể dễ dàng bị kích động do đối tượng tiếp cận gần hay chuyển động đột ngột. Khi nâng cơ thể lên cao, rắn hổ mang chúa vẫn có thể di chuyển nhanh về phía trước để tấn công dù ở khoảng cách xa và đối phương có thể đánh giá sai phạm vi an toàn.
Một số nhà khoa học tin rằng tính khí hung hãn của loài này đã bị phóng đại quá mức. Hầu hết cuộc chạm trán tại chỗ trong cuộc sống với hổ mang chúa hoang dã, con rắn xuất hiện có tính khí khá điềm tĩnh. Nhiều quan điểm ủng hộ cho rằng rắn hổ mang chúa hoang dã thường có tính khí ôn hòa, Nhà sinh vật học Michael Wilmer Forbes Tweedie cảm nhận rằng "khái niệm này được dựa trên xu hướng chung nhằm làm lắng dịu tất cả thuộc tính của loài rắn mà ít quan tâm đến sự thật về chúng. Phản ánh tại một thời điểm cho thấy rằng điều này phải như thế, đối với hổ mang chúa không phải hiếm, thậm chí trong khu vực dân cư, có ý thức hay vô thức, người dân phải chạm trán rắn hổ mang chúa khá thường xuyên. Nếu con rắn thực sự thường xuyên hung hăng, kết quả rắn cắn người hay xảy ra, do đó cực kỳ hiếm khi rắn hung hăng".
Khi gặp một kẻ thù tự nhiên, ví dụ như chồn mangut, loài vật có khả năng kháng nọc độc thần kinh, rắn hổ mang chúa thường cố gắng lẫn trốn. Nếu không thể làm như vậy, chúng sẽ phồng mang và phát ra tiếng rít, đôi khi giả vờ ngậm chặt miệng. Những nỗ lực này thường chứng minh rất hiệu quả, đặc biệt đối với kẻ thù nguy hiểm hơn nhiều so với loài chồn, ví dụ như các loài động vật có vú nhỏ có thể giết rắn một cách dễ dàng. Rắn hổ mang chúa có khả năng khống chế lượng nọc độc khi cắn; trong phần lớn cú cắn trả để tự vệ, chúng đều không tiết ra nọc độc.
Sinh sản
thumb|Rắn con và vạch chữ V trên thân phân biệt với các loài rắn hổ mang khác
Rắn hổ mang chúa giao phối vào khoảng tháng giêng đến tháng tư. Nếu nhiều con rắn đực cùng xuất hiện, chúng sẽ vật lộn, ghìm cổ đối thủ để tranh bạn tình.
Rắn cái mang thai khoảng từ 50 đến 59 ngày. Rắn hổ mang chúa là loài rắn duy nhất trên thế giới biết xây tổ đẻ trứng, Rắn cái thường đẻ khoảng 20 đến 43 trứng vào tổ.
Nọc độc
thumb|left|Hộp sọ rắn hổ mang chúa với hai răng nanh
Nọc độc của rắn hổ mang chúa chứa gồm cytotoxin và neurotoxin, bao gồm cả alpha-neurotoxin (α-Neurotoxin) và độc tố ba ngón tay (3FTx). Các thành phần độc tố khác ảnh hưởng đến tim mạch. Nọc độc hình thành trong tuyến giải phẫu có tên là tuyến nọc độc sau ổ mắt. Liều gây chết trung bình () trên chuột là 1,28 mg/kg qua đường tiêm tĩnh mạch, 1.5 to 1.7 mg/kg qua đường tiêm dưới da, 1.644 mg/kg qua đường tiêm phúc mạc. Đối với mục đích nghiên cứu, có đến 1 g nọc độc thu được qua quá trình vắt nọc.
Rắn hổ mang chúa có khả năng giáng một vết cắn tử vong và nạn nhân bị tiêm vào thân một lượng lớn nọc độc với liều khoảng 400 đến 500 mg hoặc thậm chí lên đến 7 ml. Loài rắn này có sản lượng nọc độc cao, với trung bình khoảng 420 mg trọng lượng khô ở mỗi con rắn. Theo đó, cần đủ một lượng lớn huyết thanh để đảo ngược quá trình tiến triển triệu chứng trúng độc khi bị cắn. Vết cắn của rắn hổ mang chúa có thể dẫn đến tử vong nhanh chóng chỉ sau 30 phút. Theo ước tính, lượng nọc độc tiết ra trong một vết cắn có khả năng giết chết một con voi trưởng thành và gây tử vong cho khoảng 20 người trưởng thành nếu không được chữa trị. Loại đa hóa trị còn lại do Hội Chữ thập đỏ Thái Lan sản xuất có khả năng vô hiệu hóa nọc rắn hổ mang chúa khá hiệu quả. Tại Thái Lan, hỗn hợp pha chế từ củ nghệ theo truyền thống, được chứng minh lâm sàng có khả năng phục hồi cơ thể khá tốt, chống lại nọc rắn hổ mang chúa. Phương pháp điều trị thích hợp và trực tiếp sẽ rất quan trọng để tránh tử vong. Tiền lệ thành công được ghi nhận là một nạn nhân hồi phục và xuất viện sau 10 ngày nhờ điều trị bằng huyết thanh chính xác và chăm bệnh trong viện. Tỷ lệ tử vong lâm sàng biến đổi giữa các vùng miền và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn tiến bộ của y tế địa phương. Một cuộc khảo sát tại Thái Lan báo cáo có 10 ca tử vong trên tổng số 35 nạn nhân bị rắn hổ mang chúa cắn, tỷ lệ tử vong đặt ra (28%) cao hơn so với các loài rắn hổ mang khác. Một báo cáo rà soát 6 năm được công bố của Bệnh viện Nam Ấn Độ cho biết 2/3 số nạn nhân bị rắn hổ mang chúa cắn được phân vào loại "nghiêm trọng", mặc dù cuối cùng không tử vong do điều trị y tế thích hợp.
Đe dọa và bảo tồn
trái|nhỏ|Bình rượu ngâm một con rắn hổ mang chúa Ngày nay số lượng rắn hổ mang chúa sụt giảm đáng kể do mất môi trường sống tại nhiều nơi. Loài người phá rừng để khai thác gỗ, lấy đất canh tác hay mở rộng đất định cư đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh cảnh loài. Ở tây nam Ấn Độ, dãy núi Ghat Tây chạy dọc bờ biển. Vùng đất này rộng 16.000 km2, được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Trạm cung cấp cơ sở cho nghiên cứu sinh học loài này, thông tin hoạt động bảo tồn, liên quan đến sự tham gia của những tổ chức phi chính phủ địa phương, cũng như chương trình giáo dục tại trường học địa phương.
Tại Việt Nam, rắn hổ mang chúa thường bị bắt để ngâm rượu rắn. Chúng còn bị xem là thực phẩm có nhiều giá trị dinh dưỡng và bị săn lùng khá nhiều trong tự nhiên. Đây là loài được xếp nhóm I B trong "Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm" ban hành kèm Nghị định 06/2019/NĐ-CP của Chính phủ, hiện còn rất ít ngoài tự nhiên do bị săn bắt và buôn bán trái phép.
Trong văn hóa đại chúng
Rắn hổ mang chúa được chọn là động vật bò sát quốc gia của Ấn Độ. Shesha cuộn mình thành chiếc phao bồng bềnh trên biển sữa, đóng vai trò bảo vệ kiêm giường ngủ cho Vishnu. Khi Vishnu hai lần hạ phàm trong hóa thân Rama và Krishna, Shesha cũng theo hộ tống ngài trong hóa thân Lakshmana và Balarama. Shesha còn được cho là phần còn lại tiếp tục tồn tại sau khi thế giới diệt vong.
Tại Myanmar, rắn hổ mang chúa thường xuất hiện trong lễ múa thôi miên rắn. Nghi lễ này mang ý nghĩa chào đón những cơn mưa gió mùa và cầu chúc mùa màng bội thu. Người thực hiện thường là một nữ tu sĩ, xăm ba chữ tượng hình và hôn lên đỉnh đầu con rắn khi kết thúc nghi lễ.
Tại miền nam Việt Nam, theo một số nguồn báo chí ghi nhận rắn hổ mang chúa có tên gọi địa phương là rắn hổ mây. Tại vùng Bảy Núi, tỉnh An Giang thường lưu truyền nhiều giai thoại mang đậm tính tâm linh về rắn hổ mây. Loài rắn này thường bị phóng đại về chiều dài, cân nặng trong các chuyện kể có liên quan đến nhân vật bác Ba Phi cũng như người dân tại đây. Niềm tin cho rằng rắn hổ mây to lớn cỡ cột nhà nhưng di chuyển nhanh như mây gặp gió. Có một giai thoại kể rằng rắn hổ mây nghe tụng kinh rồi xuống hang núi tu, người dân lập miếu thờ "ông Mây", tôn như linh xà. Hiện tại, miếu thờ vẫn còn tại chân núi Cô Tô, thuộc huyện Tri Tôn, An Giang.