Chi Rắn hổ mang (danh pháp khoa học: Naja) là một chi rắn độc thuộc họ Elapidae, thường quen gọi là rắn hổ mang. Những loài thuộc chi này phân bố khắp châu Phi, Tây Nam Á, Nam Á, và Đông Nam Á.
Cho tới gần đây chi Naja chứa 20 - 22 loài, nhưng nó đã trải qua mọt số sửa đổi phân loại học trong những năm gần đây, vì thế số lượng loài dao động đáng kể trong các nguồn tài liệu khác nhau.
Nọc
Tất cả các loài của chi Naja đều có khả năng tạo ra những vết cắn gây tử vong cho người. Phần lớn các loài có nọc chứa chất độc neurotoxin mạnh, khi vào cơ thể sẽ tấn công hệ thần kinh, gây ra liệt, nhưng cũng có thể chứa độc tố tế bào gây ra sưng và hoại tử, và có tác động chống đông máu đáng kể. Một vài loài có cả các thành phần độc tố tim mạch trong nọc của chúng.
Một vài loài Naja, được nhắc tới tại đây như là rắn hổ phì, có cơ chế tiết nọc chuyên biệt hóa, trong đó các răng nọc trước của chúng, thay vì giải phóng nọc qua các đầu mũi (tương tự như kim tiêm), lại có khe hở dạng rãnh xoắn ở bề mặt trước cho phép chúng phun nọc ra ngoài miệng. Trong khi nói chung được nói tới như là "phun phì phì", thì hành động này là giống như phun ra. Khoảng cách và độ chính xác mà chúng có thể phun nọc ra thì dao động theo từng loài, nhưng nó được sử dụng như là một cơ chế phòng vệ. Một khi được phun trúng da của nạn nhân, nọc có tác động như là một tác nhân gây kích thích mãnh liệt. Nếu rơi trúng mắt nó có thể gây ra cảm giác thiêu đốt mãnh liệt và gây mù lòa tạm thời hay vĩnh viễn nếu không được xử lý ngay và đúng phương pháp.
Rắn hổ mang Caspi (N. oxiana) ở Trung Á là loài rắn hổ mang có nọc độc mạnh nhất. Trung bình liều LD50 dưới da của N. oxiana ở chuột nhắt là 0,18 mg/kg, và giá trị thấp nhất đã thông báo của N. oxiana là 0,10 mg/kg dưới da. trong khi N. philippinensis có LD50 dưới da ở chuột nhắt là 0,2 mg/kg. Giá trị thấp nhất đã thông báo của N. philippinensis là 0,14 mg/kg dưới da. Ở chuột nhắt, LD50 tiêm ven của rắn hổ mang Caspi là 0,037 mg/kg, và của rắn hổ mang Philippine là 0,05 mg/kg. Rắn hổ mang Caspi là loài rắn hổ mang có nọc độc mạnh nhất trên thế giới (đối với chuột nhắt phòng thí nghiệm). Nọc thô của N. oxiana có liều gây tử vong đã biết thấp nhất (LCLo) là 0,005 mg/kg, thấp nhất trong số các loài rắn hổ mang đã được ghi nhận, phát sinh từ một trường hợp riêng lẻ bị ngộ độc bởi tiêm vào hệ thống não thất. Sau rắn hổ mang Caspi và Philippine là rắn hổ mang rừng rậm (N. melanoleuca) có LD50 là 0,225 mg/kg dưới da, kế tiếp là rắn hổ mang Samar (N. samarensis) với giá trị LD50 0,23 mg/kg dưới da. Các loài rắn hổ mang nước ở Trung Phi cũng có nọc độc rất mạnh. LD50 liên màng bụng ở chuột nhắt của nọc từ Naja annulata và Naja christyi tương ứng là 0,143 mg/kg và 0,120 mg/kg.
Các loài Naja cũng là nhóm rắn quan trọng về mặt y tế do số lượng vết cắn và số ca tử vong mà chúng gây ra trong khắp phạm vi phân bố của chúng. Chúng có mặt ở nhiều nơi tại châu Phi (bao gồm một số phần của Sahara nơi Naja haje có thể được tìm thấy), Tây Nam Á, Trung Á, Nam Á, Đông Á và Đông Nam Á. Khoảng 30–40% số vết cắn của một số loài rắn hổ mang là các vết cắn khô, nghĩa là không tiết nọc.
Nhiều yếu tố ảnh hưởng tới các khác biệt trong các ca tử vong giữa các loài khác nhau trong cùng một chi. Trong số rắn hổ mang, các ca với hậu quả tử vong của các vết cắn ở cả nạn nhân được điều trị lẫn không được điều trị có thể là rất lớn. Chẳng hạn, tỷ lệ tử vong trong số các ca bị rắn hổ mang tiết nọc và không điều trị như một nhóm tổng thể dao động từ 6,5–10% ở N kaouthia tới khoảng 70% ở N. oxiana. Tỷ lệ tử vong do vết cắn của Naja atra là 15-20%, của N. nigricollis là 5–10%, của N. nivea là 50%, của N. melanoleuca là 65–70%, của N. naja là 20–25%, và của N. samarensis là 50–60%.
Trong các ca khi nạn nhân của các vết cắn của rắn hổ mang được điều trị y tế theo thủ tục xử lý thông thường đối với kiểu nọc rắn hổ, các khác biệt trong tiên lượng phụ thuộc vào loài rắn hổ mang đã gây ra vết cắn. Phần lớn các bệnh nhân bị tiết nọc được điều trị đã phục hồi nhanh và hoàn toàn, trong khi những bệnh nhân khác cũng với cách điều trị này lại vẫn tử vong. Các yếu tố quan trọng nhất trong các khác biệt về tỷ lệ tử vong do nọc rắn hổ mang là mức độ nghiêm trọng của vết cắn và loài rắn hổ mang đã gây ra sự tiết nọc. Rắn hổ mang Caspi (N. oxiana) và rắn hổ mang Philippine (N. philippinensis) là 2 loài rắn hổ mang với nọc độc hại nhất dựa theo các nghiên cứu LD50 trên chuột nhắt. Cả hai loài đều gây ra ngộ độc thần kinh rõ nét và sự tiến triển của các triệu chứng đe dọa sinh mạng sau khi tiết nọc. Người ta từng ghi nhận sự tử vong chỉ 30 phút sau khi bị một trong hai loài này tiết nọc. Nọc thuần túy độc tố thần kinh của N. philippinensis gây ra ngộ độc thần kinh rõ nét với tổn thương mô và đau đớn cục bộ ở mức tối thiểu và bệnh nhân phản ứng rất tốt với trị liệu kháng nọc nếu điều trị được thực hành nhanh chóng ngay sau khi bị tiết nọc. Sự tiết nọc do N. oxiana gây ra là phức tạp hơn. Ngoài biểu hiện ngộ độc thần kinh rõ nét, các thành phần độc tố tế bào và độc tố tim mạch rất mạnh có trong nọc của loài này. Các tác động cục bộ được biểu lộ trong tất cả các ca tiết nọc - tổn thương mạnh, sưng to, thâm tím, phồng rộp và hoại tử mô. Tổn thương thận và độc tính tim mạch cũng là các biểu lộ lâm sàng do tiết nọc của N. oxiana, mặc dù chúng là hiếm gặp và chỉ là thứ cấp. Tỷ lệ tử vong không điều trị ở các ca bị N. oxiana tiết nọc lên tới 80%, cao nhất trong số các loài thuộc chi Naja. Kháng nọc không đạt hiệu quả cao đối với sự tiết nọc của loài này như đối với các loài rắn hổ mang châu Á khác trong cùng khu vực chúng sinh sống, như đối với rắn hổ mang Ấn Độ (N. naja) và cũng là do độc tính nguy hiểm trong nọc của loài này nên người ta phải sử dụng một lượng kháng nọc lớn hơn cho bệnh nhân. Kết quả là một loại huyết thanh kháng nọc đơn trị đã được Viện Nghiên cứu Vaccin và Huyết thanh Razi ở Iran phát triển. Phản ứng đối với điều trị bằng loại kháng nọc này ở bệnh nhân nói chung là kém, vì thế thở máy và luồn ống nội khí quản là cần thiết. Tỷ lệ tử vong trong điều trị tiết nọc của N. oxiana vẫn là tương đối cao (tới 30%) khi so với tất cả các loài rắn hổ mang khác (<1%).
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chi Rắn hổ mang** (danh pháp khoa học: **_Naja_**) là một chi rắn độc thuộc họ Elapidae, thường quen gọi là **rắn hổ mang**. Những loài thuộc chi này phân bố khắp châu Phi, Tây
**Rắn hổ mang chúa** (danh pháp hai phần: **_Ophiophagus hannah_**), hay **hổ mang vua** là loài rắn độc thuộc họ Elapidae (họ Rắn hổ), phân bố chủ yếu trong các vùng rừng rậm trải dài
**Rắn hổ mang** là tên gọi chung của nhiều rắn độc thuộc họ Rắn hổ, hầu hết trong số đó thuộc chi _Naja_. ## Sinh thái Tất cả các loài rắn hổ mang đều có
**Rắn hổ mang rừng rậm** (danh pháp hai phần: _Naja melanoleuca_), còn được gọi là **rắn hổ mang đen** (_black cobra_) hay **rắn hổ mang môi đen trắng** (_black and white-lipped cobra_), Danh pháp chi
**Rắn hổ mang Phục Hy** (**_Naja fuxi_**) là một loài rắn hổ mang độc, đặc hữu của khu vực Đông Nam Á. Loài này từng được xem là một phần của loài rắn hổ mang
**Rắn hổ mang Philippines** hay **rắn hổ mang phun nọc Philippines** (danh pháp hai phần: _Naja philippinensis_) là một loài rắn hổ mang ngắn, nọc độc cao trong loài rắn hổ mang phun nọc có
**Rắn hổ mang phun nọc cổ đen** (danh pháp hai phần: _Naja nigricollis_) là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Reinhardt mô tả khoa học đầu tiên năm 1843. Loài rắn
**Rắn hổ xiên mắt** (danh pháp khoa học: **_Pseudoxenodon macrops_**) là một loài rắn trong họ Rắn nước. Loài này được Blyth mô tả khoa học đầu tiên năm 1855. _P. macrops_ là một loài
**Họ Rắn hổ** (danh pháp khoa học: **_Elapidae_**) là một họ rắn thuộc phân bộ Rắn (Serpentes) trong nhánh Ophidia. Theo truyền thống chỉ bao gồm các loài rắn độc sống ở cạn, nhưng gần
**Hiệu ứng rắn hổ mang** xảy ra khi một giải pháp nhằm giải quyết vấn đề lại khiến vấn đề trở nên tồi tệ hơn, ## Nguồn gốc phải|nhỏ|240x240px| Rắn hổ mang Ấn Độ Thuật
**Rắn hổ mang Samar**, còn được gọi là **rắn hổ mang Peters**, **rắn hổ mang miền nam Philippines** hay **rắn hổ mang Visaya** (danh pháp hai phần: _Naja samarensis_), là một loài rắn hổ mang
**Rắn hổ mang Caspi** còn được gọi là **rắn hổ mang Trung Á**, **rắn hổ mang Ba Tư**, danh pháp hai phần: _Naja oxiana_, là một loài rắn độc trong họ Rắn hổ. Loài này
**Phân họ Rắn hổ xiên** (danh pháp khoa học: **_Pseudoxenodontinae_**) là một phân họ nhỏ trong họ Colubridae, gồm khoảng 10 loài trong 2 chi. ## Đặc điểm ## Phân bố Phân họ này được
**Rắn hổ mang Ai Cập** (danh pháp hai phần: _Naja haje_) là một loài rắn hổ mang phân bố tại châu Phi. Đây là một trong những loài rắn hổ mang bản địa lớn nhất
**Rắn mamba đen** (danh pháp hai phần: **_Dendroaspis polylepis_**) là một loài rắn độc đặc hữu tại châu Phi hạ Sahara. Tên gọi phổ biến của loài này không bắt nguồn từ màu sắc vảy
nhỏ|phải|Cầy Meerkat được biết đến là săn bắt và ăn những con rắn nhỏ **Động vật ăn rắn** hay còn gọi là **Ophiophagy** (tiếng Hy Lạp: ὄφις + φαγία có nghĩa là "_ăn con rắn_")
**Rắn Mamba** (Danh pháp khoa học: _Dendroaspis_) là một chi rắn trong họ rắn Elapidae. Các loài trong chi này có đặc điểm là những con rắn chuyển động nhanh, bò trên mặt đất hoặc
**Rắn mống** hay **Rắn hổ hành** (danh pháp khoa học: **_Xenopeltis unicolor_**) là một loài rắn thuộc họ Rắn mống. Loài rắn có lớp vảy phát ra ngũ sắc dưới ánh nắng. ## Miêu tả
**Rắn** là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài động vật bò sát ăn thịt, không có chân và thân hình tròn dài (hình trụ), thuộc phân bộ **Serpentes**, có thể phân biệt
**Con rắn** là một trong những biểu tượng thần thoại lâu đời nhất và phổ biến nhất của thế giới loài người. Loài rắn này đã được kết hợp với một số các nghi lễ
**Nọc rắn** hay **nọc độc rắn** là tuyến chứa các chất độc của các loài rắn độc. Nọc, cũng giống như các loại dịch tiết dạng nước bọt khác, là chất tiền tiêu hóa để
**Rắn cắn** là thuật ngữ đề cập đến những trường hợp con người bị loài rắn tấn công. Thông thường rắn không tấn công con người, trừ khi bị giật mình hay bị thương. Nói
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Rắn hoa cỏ cổ đỏ** (danh pháp hai phần: _Rhabdophis subminiatus_) là động vật bò sát chi Rắn hoa cỏ họ Rắn nước, tên dân gian **rắn cổ trĩ đỏ**, **rắn nước cổ đỏ**, **rắn
nhỏ|phải|Nhiều người sợ khi trông thấy rắn **Hội chứng sợ rắn** hay **nỗi sợ rắn** (tiếng Anh: ophidiophobia) là một hội chứng tâm lý của con người có đặc trưng là nỗi ám ảnh về
**Chi Cạp nia** (**_Bungarus_**) là một chi rắn thuộc họ Rắn hổ (_Elapidae_) có nọc độc, tìm thấy chủ yếu ở Ấn Độ và Đông Nam Á. Chi này có 15 loài và 8 phân
**Hổ Bengal** hay **Hổ hoàng gia Bengal** (danh pháp khoa học: **_Panthera tigris tigris_**) là một phân loài hổ được tìm thấy nhiều nhất tại Bangladesh, Ấn Độ, Nepal, Bhutan và miền nam Tây Tạng.
nhỏ|phải|Một miếng thịt rắn nhỏ|Hải báo xà (海豹蛇) có lẽ là loài _[[Enhydris bocourti_) chiếm vị trí trang trọng trong số các đặc sản tươi sống bên ngoài một khách sạn ở Quảng Châu.]] **Thịt
**Rắn chuột** hay **rắn săn chuột** là các loài rắn trong họ rắn nước phân bố ở Bắc Bán cầu có tập tính thường xuyên săn bắt những động vật gặm nhấm nhỏ (chủ yếu
Bạn đang gặp vấn đề về xương khớp. Bạn cần một sản phẩm tiện dụng giúp giảm đau nhanh, hiệu quả. Đừng lo đã có Kem xoa ELATOXAN!!!Đặc biệt là sự kết hợp hài hòa
MÔ TẢ SẢN PHẨMTHÀNH PHẦN: Mỗi lọ 20g chứa: Methyl salicylat (Methylis salicylas): 4g Camphor (Camphora): 3,5g Tinh dầu bạc hà (Oleum Menthae arvensis): 2,2g Menthol (Mentholum): 1,2g Tinh dầu quế (Oleum Cinnamomi): 0,5g Nọc
Mèo con mới về nhà, đêm đầu tiên đã giáp mặt lão Chuột cống dữ dằn cùng lũ chuột nhắt hung hăng. Mèo con khiếp sợ, nhưng vốn là một chú mèo dũng cảm, Mèo
Cái Tết Của Mèo Con Tái Bản 2020 Mèo con mới về nhà, đêm đầu tiên đã giáp mặt lão Chuột cống dữ dằn cùng lũ chuột nhắt hung hăng. Mèo con khiếp sợ, nhưng
nhỏ|phải|Rừng phòng hộ Phú Ninh **Hồ Phú Ninh** là một hồ chứa nước nhân tạo, hồ nằm cách thành phố Tam Kỳ khoảng 7 km về phía tây thuộc địa phận huyện Núi Thành và huyện
Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố Già là sự gặp gỡ giữa một bên là ý chí cương cường và nền tảng gia tộc chặt chẽ theo truyền thống mafia xứ
Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố Già là sự gặp gỡ giữa một bên là ý chí cương cường và nền tảng gia tộc chặt chẽ theo truyền thống mafia xứ
Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố Già là sự gặp gỡ giữa một bên là ý chí cương cường và nền tảng gia tộc chặt chẽ theo truyền thống mafia xứ
Thế giới ngầm được phản ánh trong tiểu thuyết Bố Già là sự gặp gỡ giữa một bên là ý chí cương cường và nền tảng gia tộc chặt chẽ theo truyền thống mafia xứ
1. Thành phần của Viên Khớp Bách XàTrong mỗi viên khớp bách xà có chứa: Cao rắn hổ mang …80mg; Cao xương dê…20mg; Glucosamin sulfat…60mg; Collagen typ II…40mg; Đỗ trọng…40mg; Độc hoạt…40mg; Phòng phong…40mg; Tang
MÔ TẢ SẢN PHẨM1. Thành phần của Viên Khớp Bách Xà Trong mỗi viên khớp bách xà có chứa: Cao rắn hổ mang …80mg; Cao xương dê…20mg; Glucosamin sulfat…60mg; Collagen typ II…40mg; Đỗ trọng…40mg; Độc
**Họ Cánh cộc** (tên khoa học **_Staphylinidae_**) là một họ côn trùng thuộc bộ bọ cánh cứng. Một số loài trong chúng có thân mình thon, dài như hạt thóc (dài 1 - 1,2 cm, ngang
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Các vùng miền ở Việt Nam đều có ghi nhận tục thờ rắn. ## Miền Bắc ### Tuyên Quang Tại Đền Cấm ở thuộc
**Tục thờ rắn** là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Trong nền văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới cũng như Việt Nam, rắn là con vật có sức ảnh hưởng mạnh
nhỏ|phải|Đền thờ rắn ở Thái Lan **Tục thờ rắn** hay **tín ngưỡng thờ rắn** là các hoạt động thờ phụng loài rắn. Rắn là loài vật được nhiều dân tộc trên thế giới tôn thờ.
thumb|Nam giới người Do Thái không được cắt tóc ở vùng thái dương Truyền thống coi **613 điều răn** (: _taryag mitzvot_, "613 mitzvot") là số lượng điều răn (mitzvot) có trong Kinh thánh Torah
nhỏ|phải|Phù điêu ông Cọp ở đình Bình Đông nhỏ|phải|Phù điêu Bạch Hổ ở đình Cô Giang nhỏ|phải|Hoàng Hổ tướng quân trong ban thờ ở Đền thờ Đức Thánh Trần **Hổ được tôn thờ** và là
**Nuôi rắn** là việc thực hành nuôi các loài rắn (bao gồm cả trăn) để lấy sản phẩm từ chúng đặc biệt là da rắn, nọc rắn và thịt rắn. Những quốc gia nuôi rắn
**Rắn biển** là một nhóm rắn có nọc độc sinh sống trong môi trường biển hay sinh sống phần lớn thời gian trong môi trường biển, mặc dù chúng đã tiến hóa từ tổ tiên
**Chim cổ rắn** là các loài chim trong họ **Anhingidae**, bộ Chim điên (trước đây xếp trong bộ Bồ nông). Hiện nay còn tồn tại tổng cộng 4 loài trong một chi duy nhất, một
**_Hydrophis belcheri_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được John Edward Gray mô tả khoa học đầu tiên năm 1849. Loài này rụt rè và thông thường chỉ cắn người khi