✨Chi Cạp nia

Chi Cạp nia

Chi Cạp nia (Bungarus) là một chi rắn thuộc họ Rắn hổ (Elapidae) có nọc độc, tìm thấy chủ yếu ở Ấn Độ và Đông Nam Á. Chi này có 15 loài và 8 phân loài. Các tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là rắn cạp nong, cạp nia, mai gầm, hổ khoang v.v.

Phân bố

Các loài cạp nong, cạp nia được tìm thấy chủ yếu tại tiểu lục địa Ấn Độ (bao gồm cả Sri Lanka và miền đông Pakistan) và Đông Nam Á (bao gồm cả Indonesia Việt Nam và Borneo).

Miêu tả

nhỏ|[[Cạp nia bắc]] Các loài rắn này thường có chiều dài khoảng 1-1,5 m, mặc dù có cá thể dài tới 2 m đã được quan sát thấy. Cạp nong (B. fasciatus) có thể dài tới 2,5 m. Phần lớn các loài rắn này có lớp vảy trơn và bóng được sắp xếp thành các khoang đậm màu, bao gồm các khoang đen và khoang màu sáng xen kẽ. Điều này giúp chúng ngụy trang khá tốt tại môi trường sinh sống của chúng tại các đồng cỏ và các cánh rừng có nhiều bụi rậm. Các vảy dọc theo sống lưng có hình lục giác. Đầu thon mảnh và các mắt có con ngươi tròn. Chúng có tiết diện ngang hình tam giác và phẳng ở phần lưng-hông. Đuôi hẹp dần thành điểm nhọn.

Sinh sản

Chúng là loại động vật đẻ trứng và rắn cái đẻ khoảng 6 -12 trứng trong ổ bằng lá cây và sống ở đó cho đến khi trứng nở.

Thức ăn và hành vi

Các loài rắn trong chi này là các loại động vật ăn thịt rắn, con mồi chủ yếu của chúng là các loài rắn khác (bao gồm cả những loài có nọc độc) và chúng ăn thịt cả đồng loại. Chúng cũng ăn thịt cả các loài thằn lằn nhỏ.

Tất cả các loài thuộc chi này đều kiếm ăn về đêm. Ban ngày chúng khá hiền lành, nhưng trở nên hung dữ hơn về đêm. Tuy nhiên, nói chung chúng khá nhút nhát và thông thường hay ẩn giấu đầu của chúng trong phần thân được cuộn tròn lại để tự vệ. Trong tư thế như vậy, đôi khi chúng sẽ quất đuôi như một dạng của sự tiêu khiển và cảnh báo.

Nọc độc

Các loài trong chi Bungarus có nọc độc với độc tính đối với hệ thần kinh, có hiệu lực cao hơn nhiều lần so với nọc rắn hổ mang[http://www.ajtmh.org/cgi/reprint/79/3/458.pdf]. Cú cắn của chúng rất nguy hiểm và gây ra trụy hệ hô hấp đối với nạn nhân. Trước khi có thuốc chữa rắn cắn có tác dụng được điều chế ra, thì tỷ lệ tử vong của nạn nhân lên tới 75%. Vì các vết cắn của chúng ít khi sưng hay đau nhiều, nạn nhân có thể nhận được cấp cứu quá trễ sau khi triệu chứng tê liệt thần kinh đã bột phát [http://www.ajtmh.org/cgi/reprint/79/3/458.pdf]; một điều may mắn là chúng rất ít khi hung hãn. Năm 2001, tiến sĩ Joe Slowinski đã bị một con cạp nia non cắn trong khi tiến hành nghiên cứu thực địa về chúng tại Myanma, do không kịp nhận sự hỗ trợ y tế nên đã tử vong.

Các loài

*) Bao gồm cả nguyên chủng
T) Loài điển hình.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chi Cạp nia** (**_Bungarus_**) là một chi rắn thuộc họ Rắn hổ (_Elapidae_) có nọc độc, tìm thấy chủ yếu ở Ấn Độ và Đông Nam Á. Chi này có 15 loài và 8 phân
**Rắn cạp nia thông thường** còn gọi là **Cạp nia Ấn Độ** hay **Cạp nia xanh** có danh pháp khoa học **_Bungarus caeruleus_** là một loài rắn độc thuộc chi Cạp nia trong họ Rắn
**Rắn cạp nia bắc** hay **rắn cạp nia Trung Quốc**, **rắn mai gầm bạc**, **cạp nia miền bắc**, **cạp nia Đài**, **kim tiền bạch hoa xà**, **rắn hổ khoang**, **rắn vòng bạc** **ngù cáp tan**
**Rắn cạp nia Mã Lai** hay **cạp nia miền nam**, **rắn hổ khoang**, **rắn vòng bạc** (danh pháp hai phần: **_Bungarus candidus_**) là một loài rắn cạp nia thuộc họ Rắn hổ. Loài này được
**Rắn cạp nong** hay còn gọi **rắn đen vàng**,. Nó đã được ghi lại từ Ấn Độ thông qua Maharashtra, Bihar, Jharkhand, Madhya Pradesh, Chhattisgarh và Andhra Pradesh, qua Myanmar, Campuchia, Thái Lan, Lào, Việt
**Rắn cạp nong đầu đỏ** (danh pháp hai phần: _Bungarus flaviceps_) là một loài cạp nong thuộc họ Rắn hổ. Loài này được mô tả năm 1843 bởi Reinhardt. Loài này phân bố ở nam
**_Rắn cạp nia sông Hồng_** (tên khoa học_: Bungarus slowinskii,_ tên tiếng Anh: _Red river krait_) là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Kuch, Kizirian, Nguyen, Lawson, Donnelly & Mebs mô
**_Bungarus sindanus_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Boulenger mô tả khoa học đầu tiên năm 1897.
**_Bungarus magnimaculatus_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Wall & Evans mô tả khoa học đầu tiên năm 1900.
**_Bungarus niger_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Wall mô tả khoa học đầu tiên năm 1908. ## Hình ảnh Tập tin:GreaterBlackKrait.jpg
**_Bungarus ceylonicus_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Günther mô tả khoa học đầu tiên năm 1864.
**_Bungarus lividus_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Cantor mô tả khoa học đầu tiên năm 1839.
**_Bungarus andamanensis_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Biswas & Sanyal mô tả khoa học đầu tiên năm 1978.
**_Bungarus bungaroides_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Cantor mô tả khoa học đầu tiên năm 1839.
**Họ Rắn hổ** (danh pháp khoa học: **_Elapidae_**) là một họ rắn thuộc phân bộ Rắn (Serpentes) trong nhánh Ophidia. Theo truyền thống chỉ bao gồm các loài rắn độc sống ở cạn, nhưng gần
**Ba Hòn** là một cụm núi thấp, gồm 3 ngọn núi Hòn Đất, Hòn Me, Hòn Quéo sát bờ biển, thuộc xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Tên gọi Ba Hòn được
**Rắn** là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài động vật bò sát ăn thịt, không có chân và thân hình tròn dài (hình trụ), thuộc phân bộ **Serpentes**, có thể phân biệt
**Nọc rắn** hay **nọc độc rắn** là tuyến chứa các chất độc của các loài rắn độc. Nọc, cũng giống như các loại dịch tiết dạng nước bọt khác, là chất tiền tiêu hóa để
**_Myrichthys colubrinus_** là một loài cá biển thuộc chi _Myrichthys_ trong họ Cá chình rắn. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1781. ## Từ nguyên Tính từ định danh _colubrinus_
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
**Rắn cắn** là thuật ngữ đề cập đến những trường hợp con người bị loài rắn tấn công. Thông thường rắn không tấn công con người, trừ khi bị giật mình hay bị thương. Nói
**Rắn ráo** (danh pháp hai phần: **_Ptyas korros_**) hay còn gọi **ngù thinh** (người Tày), **ngù sla** (người Nùng) ## Sinh thái và tập tính Rắn ráo sống trong rừng, trảng cỏ, bụi ven đường
**Thọ Sơn** (), trước đây là **Đả Cẩu Sơn** (), **Đả Cổ Sơn** (), cũng thường được gọi là **Sài Sơn** (), là một ngọn núi tọa lạc tại quận Cổ Sơn ở thành phố
**Hkakabo Razi** (, ; ; Hán-Việt: _Khai Gia Bác Phong_). Đây là ngọn núi cao nhất của Myanmar, với độ cao 5.881 mét (19.295 ft), đồng thời là ngọn núi cao nhất ở Đông Nam Á.
**Làng mây tre đan Chính Mỹ** là làng nghề cổ truyền có cách đây trên 200 năm, nay thuộc xã Quang Trung, thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Sản phẩm của làng nghề
**Người Mường**, còn có tên gọi là **Mol**, **Moan**, **Mual**, là dân tộc sống ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Người Mường được công nhận là một thành viên
right|thumb|[[Sao la (_Pseudoryx nghetinhensis_) phát hiện tại Việt Nam năm 1992]] **Hệ động thực vật hoang dã tại Việt Nam** có sự đa dạng sinh học độc đáo. Công tác bảo vệ bảo tồn và
Lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm được tổ chức hàng năm tại chùa Vĩnh Nghiêm (hay còn gọi là Lễ hội chùa La). Lễ chùa Vĩnh Nghiêm Lễ hội thể hiện nhu cầu tinh thần, nhu