✨Rắn mamba đen

Rắn mamba đen

Rắn mamba đen (danh pháp hai phần: Dendroaspis polylepis) là một loài rắn độc đặc hữu tại châu Phi hạ Sahara. Tên gọi phổ biến của loài này không bắt nguồn từ màu sắc vảy rắn, mà do màu sắc đen như mực bên trong vòm miệng rắn. Đây là loài rắn độc dài nhất tại lục địa châu Phi, với chiều dài đặc thù có phạm vi từ đến và lên đến . Loài này là một trong những loài rắn di chuyển nhanh nhất thế giới, có khả năng di chuyển với tốc độ trên một khoảng cách ngắn.

Mamba đen sinh sản hàng năm. Mùa giao phối diễn ra vào đầu mùa xuân. Rắn cái đẻ trứng sau khi mang thai hơn 80 đến 90 ngày. Rắn mamba non nhạt màu hơn rắn trưởng thành và tối màu dần theo tuổi tác. Mặc dù mamba thường là những loài rắn cư trú trên cây, nhưng mamba đen chỉ thỉnh thoảng sống trên cây, chúng thích xây hang ổ trên mặt đất. Rắn mamba đen sinh sống trên một loạt địa hình từ đồng cỏ khô, rừng thưa, sườn núi đá đến rừng rậm. Đây là động vật ban ngày, phần lớn săn mồi mai phục, săn con mồi chuột đá, vượn mắt to và những loài hữu nhũ nhỏ khác. Rắn mamba đen trưởng thành có vài loài động vật thiên địch săn chúng trong hoang dã.

Nọc độc của rắn mamba đen chứa độc tính cao, có khả năng gây bất tỉnh ở người trong vòng 45 phút hoặc ít hơn. Nếu không có chất kháng nọc độc hiệu quả để điều trị, tử vong thường xảy ra trong khoảng 7-15 giờ. Nọc độc chủ yếu thuộc nhóm neurotoxin, đặc biệt chứa dendrotoxin. Rắn mamba đen có khả năng tấn công trong cự ly đáng kể và đôi khi có thể thực hiện một loạt vết cắn nhanh chóng nối tiếp nhau. Mặc dù mang tiếng rất hung hăng, nhưng giống như hầu hết các loài rắn khác, chúng thường cố trốn tránh khỏi con người trừ khi bị đe dọa hoặc bị dồn ép.

Phân loại

Rắn mamba đen được phân loại dưới chi Dendroaspis thuộc họ Elapidae và loài D. polylepis. Mamba đen được mô tả lần đầu tiên vào năm 1864 bởi Albert Günther, một nhà động vật học, ngư học, và bò sát học người Anh gốc Đức. Năm 1873, Wilhelm Peters mô tả 2 phân loài: D.polylepis polylepisD.polylepis antinorii. đến năm 1946, khi FitzSimons chia chúng thành những loài riêng biệt một lần nữa.

Danh pháp chi, Dendroaspis, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại Dendro, nghĩa là "cây", và aspis hoặc "asp", được hiểu theo nghĩa "lá chắn", nhưng cũng có hàm nghĩa "rắn hổ mang" hoặc chỉ đơn giản là "con rắn". Trong văn bản cổ, aspis hay asp thường được sử dụng nhằm nhắc đến rắn hổ mang Ai Cập (Naja haje), ám chỉ phần mang giống như lá chắn. Như vậy, "Dendroaspis" theo nghĩa đen là rắn trên cây, đề cập đến bản chất sống trên cây của hầu hết các loài trong chi. Danh pháp loài polylepis có nguồn gốc từ chữ poly trong tiếng Hy Lạp cổ đại nghĩa là "nhiều" hoặc "bội số" và lepis nghĩa là "vảy", cho nghĩa đen là "nhiều vảy". Có khả năng nhất nói đến kích thước và số lượng vảy cao ở loài này so sánh với loài khác cùng chi.

Mô tả

thumb|Một con rắn mamba đen đang há vòm miệng để lộ bên trong miệng một màu đen như mực

Trái với tên gọi thông thường, rắn mamba đen không thực sự có màu đen. Màu sắc da rắn biến thiên giữa nâu ôliu đến xám trắng, hoặc đôi khi có màu ka-ki; vài cá thể còn phô bày những đường vằn sẫm màu hướng về phía sau, hình thành những thanh xiên trên da. Dưới thân thường có màu vàng nhạt hay màu kem. Đôi mắt có màu từ nâu sẫm đến màu đen; vành mắt màu bạc hoặc vàng nhạt xung quanh đồng tử. Rắn non sơ sinh sáng màu hơn rắn trưởng thành, đặc thù có màu xám hoặc xanh lục ôliu ở bên ngoài và tối màu dần theo tuổi tác. Đây là loài rắn có cấu trúc proteroglyphous, răng nanh đạt chiều dài lên đến . Một mẫu vật khoảng tìm được đạt cân nặng . Đây là loài rắn độc sở hữu chiều dài lớn thứ nhì thế giới, chỉ sau chiều dài của rắn hổ mang chúa tại Ấn Độ và Đông Nam Á.

  • Phần lưng tại thân giữa: 23–25 (hiếm khi 21)

  • Bụng: 248–281

  • Dưới đuôi: 109–132 (theo cặp)

  • Mảng dẹt hậu môn: phân chia

  • Môi trên: 7-8

  • Môi trên đến mắt: thứ 4 (thứ 3 và thứ 4)

  • Trước mắt: 3 (thỉnh thoảng 4)

  • Trụ mắt: 3-4 (thỉnh thoảng 2–5)

  • Môi dưới: 11-13 (thỉnh thoảng 10–14)

  • Thái dương: 2+3 (biến đổi)

Phân bố và môi trường sống

Rắn mamba đen sinh sống trên một phạm vi rộng và đôi khi bị phân mảnh tại châu Phi hạ Sahara. Cụ thể, phạm vi mamba đen quan sát được như sau: đông bắc cộng hòa Dân chủ Congo, tây nam Sudan đến Ethiopia, Eritrea, Somalia, Kenya, phía đông Uganda, Tanzania, Burundi, Rwanda, phía nam đến Mozambique, Swaziland, Malawi, Zambia, Zimbabwe, Botswana đến KwaZulu-Natal tại Nam Phi, và Namibia; sau đó về phía đông bắc thông qua Angola đến đông nam Congo. Phân bố của rắn mamba đen chứa nhiều khoảng trống tại Cộng hòa Trung Phi, Chad, Nigeria và Mali. Những khoảng trống này có thể khiến giới y tế nhận diện sai về mamba đen và cung cấp huyết thanh kháng độc kém hiệu quả. thường sống tại khu vực ít được chú ý, có bụi rậm, gò mối, hang bỏ hoang và khe đá. Bất kỳ chuyển động bất ngờ nào ở giai đoạn này có thể kích động rắn mamba tiến hành một loạt đòn tấn công nhanh khiến đối phương trúng độc nặng. Điều này cho phép tấn công ở phạm vi rộng đáng kể, kể cả con người ở tầm ngang ngực. Đã có rất nhiều câu chuyện phóng đại liên quan đến tốc độ của rắn Mamba đen di chuyển trên mặt đất. Cơ thể mảnh thon dài có khả năng tạo ấn tượng cho rằng rắn đang chuyển động nhanh hơn so với thực tế. Một con rắn mamba đen gần như chắc chắn không thể vượt quá và rắn chỉ có thể duy trì tốc độ tương đối cao trên khoảng cách ngắn. Cầy mangut cũng miễn dịch cục bộ với nọc độc, thường đủ nhanh để tránh khỏi vết cắn, thỉnh thoảng sẽ xử lý rắn mamba đen làm mồi. Con người thường không ăn thịt rắn mamba đen, nhưng thường giết rắn do sợ hãi.

Sinh sản

nhỏ|trái|Rắn mamba đen đực đang đánh nhau

Rắn mamba đen sinh sản hàng năm. Giao phối diễn ra vào đầu mùa xuân. Rắn mamba đực định vị rắn cái bằng cách theo dõi vệt mùi hơi do rắn cái để lại. Sau khi tìm ra đối tượng giao phối tiềm năng, rắn đực sẽ kiểm tra rắn cái bằng cách búng lưỡi trên toàn bộ cơ thể rắn cái. Con đực sở hữu dương vật thằn lằn. Giống như hầu hết các loài rắn, mamba cái là loài vừa đẻ trứng vừa sinh sản nhiều lần. Trong một thí nghiệm, độc tố có thừa nhất chứa trong nọc độc của mamba đen, quan sát được có khả năng giết chết một con chuột trong vòng 4,5 phút ngắn ngủi. 0.28 mg/kg.

  • (IV) Tĩnh mạch: 0.25 mg/kg,
  • (IP) Phúc mạc: 0.30 mg/kg (trung bình), 0.941 mg/kg. (trích dẫn cuối cùng không rõ ràng nếu hoặc tiêm vào tĩnh mạch hoặc tiêm vào phúc mạc).

Vết cắn có thể tiết ra 100–120 mg lượng nọc độc trên trung bình và liều tối đa được ghi nhận là 400 mg. Nếu không có biện pháp can thiệp hiệu quả, tử vong thường diễn ra trong vòng 7-15 giờ. Hiện nay, một loại huyết thanh đa hóa trị do viện nghiên cứu y tế Nam Phi sản xuất để điều trị rắn mamba đen cắn từ nhiều địa phương.

Nếu bị cắn, các triệu chứng nguy hiểm sẽ xuất hiện trong vòng 10 phút. Khi đó, miệng nạn nhân bắt đầu xuất hiện mùi vị kim loại, da bị mẫn cảm, cơ bị co giật, giảm thị lực, mắt đỏ, khó thở, và nguy hiểm nhất là nạn nhân có dấu hiệu hôn mê theo thời gian. Ngoài ra, chức năng não bị tê liệt dần và dẫn đến triệu chứng khác như tiêu chảy, chảy nước bọt, trụy tim. Đau khoanh vùng hoặc tê nhức xung quanh chỗ cắn khá phổ biến nhưng thường không nghiêm trọng; do đó, áp một mảnh băng gạc vết thương vào vết cắn là cách khả thi và có thể khiến cho tiến trình tấn công của độc tố thần kinh bị chậm lại. Nếu không điều trị thích hợp, triệu chứng thường tiến triển đến phản ứng nặng hơn như nhịp tim nhanh bất thường hay chấn động mô thần kinh, dẫn đến tử vong do ngạt thở, trụy tim mạch hoặc suy hô hấp. khiến cho người dân địa phương Nam Phi gọi vết cắn của rắn mamba đen là "nụ hôn của thần chết". Tuy nhiên, cuộc tấn công vào con người do rắn mamba đen rất hiếm, vì chúng thường cố gắng tránh đối đầu và sự xuất hiện trong khu vực đông dân cư rất không phổ biến so với một số loài khác. Ngoài ra, rắn thảm mắt đơn chịu trách nhiệm cho những ca tử vong ở người do rắn cắn nhiều hơn tất cả các loài rắn châu Phi khác cộng lại.

Ca rắn cắn được báo cáo

Năm 1998, Danie Pienaar, hiện nay đứng đầu dịch vụ khoa học công viên quốc gia Nam Phi,, đã sống sót qua vết cắn của rắn mamba đen mà không cần can thiệp. Mặc dù không được tiêm chất kháng nọc độc, Pienaar đã ở trong tình trạng nghiêm trọng, mặc dù thực tế bác sĩ bệnh viện tuyên bố đó là ca trúng độc rắn mamba đen "vừa phải". Tại một thời điểm, Pienaar rơi vào tình trạng hôn mê và dự đoán sống sót công bố được khá "ít ỏi". Khi đến bệnh viện, Pienaar ngay lập tức được đặt ống khí quản, điều trị bằng thuốc hỗ trợ, cho thở máy và được đặt vào hệ thống duy trì sự sống trong ba ngày; cho đến khi chất độc được tống ra khỏi cơ thể ông. Ông xuất viện vào ngày thứ 5. Pienaar tin rằng ông sống sót nhờ vài lý do. Trong một bài báo trên Kruger Park Times, ông phát biểu: "Thứ nhất, đó không phải là thời gian của tôi đi." bài báo cũng tuyên bố "Thực tế ông đã bình tĩnh và di chuyển chậm rãi chắc chắn được giúp đỡ. Băng gạc vết thương cũng rất cần thiết."

Trong một trường hợp khác, một sinh viên người Anh 28 tuổi, Nathan Layton đã bị một con rắn mamba đen cắn và chết sau một cơn đau tim trong vòng chưa đầy 1 giờ vào tháng 3 năm 2008. Mamba đen được tìm thấy gần một lớp học tại trường Cao đẳng thiên nhiên hoang dã Nam Phi ở Hoedspruit, nơi Layton được đào tạo để trở thành một hướng dẫn viên thú săn. Layton bị rắn cắn vào ngón tay trỏ trong khi nó đã được đưa vào một cái bình, nhưng anh đã không nhận ra mình bị cắn. Anh nghĩ rằng con rắn đã chỉ gạt tay mình. Khoảng 30 phút sau khi bị cắn Layton phàn nàn về thị lực mờ. Anh bị tê liệt và chết sau một cơn đau tim, gần 1 giờ sau khi bị cắn. Nỗ lực cứu sống anh đã thất bại và anh chết tại hiện trường.

Năm 2013, trong một trường hợp hiếm hoi và bất thường, nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp người Mỹ, Mark Laita, bị cắn vào chân do một con rắn mamba đen khi đang chụp một bức ảnh một con rắn mamba đen tại một cơ sở ở Trung Mỹ. Vết cắn làm đứt một động mạch ở bắp chân, ông bị phun máu đầm đìa. Laita đã không đi đến bác sĩ hay bệnh viện, ngoại trừ răng nanh sưng phồng khiến anh đau dữ dội trong đêm, anh không bị ảnh hưởng và thể chất vẫn tốt. Điều này đã khiến anh tin rằng con rắn đã cắn ông một "vết cắn khô" (có nghĩa không tiết ra nọc độc) hoặc do máu chảy nhiều đẩy nọc độc ra. Vài bình luận về câu chuyện này cho rằng đó là một con rắn được loại bỏ nọc độc (trong đó tuyến nọc độc được phẫu thuật cắt bỏ). Laita phản hồi rằng đó không phải ca cấp cứu. Chỉ sau này, Laita nhận ra rằng anh đã bắt được con rắn cắn chân anh trong một bức ảnh chụp.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Rắn mamba đen** (danh pháp hai phần: **_Dendroaspis polylepis_**) là một loài rắn độc đặc hữu tại châu Phi hạ Sahara. Tên gọi phổ biến của loài này không bắt nguồn từ màu sắc vảy
**Rắn Mamba** (Danh pháp khoa học: _Dendroaspis_) là một chi rắn trong họ rắn Elapidae. Các loài trong chi này có đặc điểm là những con rắn chuyển động nhanh, bò trên mặt đất hoặc
**Rắn mamba lục miền đông** (danh pháp hai phần: _Dendroaspis angusticeps_) là một loài rắn rất độc sống trên cây ở châu Phi có kích cỡ từ vừa đến lớn trong họ Elapidae. Loài rắn
**Họ Rắn hổ** (danh pháp khoa học: **_Elapidae_**) là một họ rắn thuộc phân bộ Rắn (Serpentes) trong nhánh Ophidia. Theo truyền thống chỉ bao gồm các loài rắn độc sống ở cạn, nhưng gần
**Rắn hổ mang** là tên gọi chung của nhiều rắn độc thuộc họ Rắn hổ, hầu hết trong số đó thuộc chi _Naja_. ## Sinh thái Tất cả các loài rắn hổ mang đều có
**Rắn cắn** là thuật ngữ đề cập đến những trường hợp con người bị loài rắn tấn công. Thông thường rắn không tấn công con người, trừ khi bị giật mình hay bị thương. Nói
**Rắn** là tên gọi chung để chỉ một nhóm các loài động vật bò sát ăn thịt, không có chân và thân hình tròn dài (hình trụ), thuộc phân bộ **Serpentes**, có thể phân biệt
**Rắn hổ mang chúa** (danh pháp hai phần: **_Ophiophagus hannah_**), hay **hổ mang vua** là loài rắn độc thuộc họ Elapidae (họ Rắn hổ), phân bố chủ yếu trong các vùng rừng rậm trải dài
**Nọc rắn** hay **nọc độc rắn** là tuyến chứa các chất độc của các loài rắn độc. Nọc, cũng giống như các loại dịch tiết dạng nước bọt khác, là chất tiền tiêu hóa để
**Dendrotoxins** là một nhóm các chất tiền sinh neurotoxin được sản xuất bởi các loài rắn mamba (_Dendroaspis_) chặn các phân nhóm cụ thể của gated điện áp kênh kali trong nơ-ron, do đó tăng
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
**"Black Mamba"** là đĩa đơn đầu tay của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Aespa. Ca khúc được SM Entertainment phát hành vào ngày 17 tháng 11 năm 2020, do Yoo Young-jin đồng sáng tác với
nhỏ|phải|[[Linh dương Eland (Taurotragus oryx), loài đặc hữu của thảo nguyên châu Phi]] nhỏ|phải|Sư tử châu Phi, vị vua của thảo nguyên châu Phi và là sinh vật biểu tượng của lục địa này **Hệ
**_Dendroaspis jamesoni_** là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Traill mô tả khoa học đầu tiên năm 1843. Đây là loài đặc hữu châu Phi. ## Mô tả thumb _Dendroaspis jamesoni_
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
**Phim về động vật** là thể loại phim có liên quan đến chủ đề, đề tài về các loài động vật, trong đó, các loài động vật có thể là nhân vật chính hoặc không.
**Đại bàng Martial**, tên khoa học **_Polemaetus bellicosus_**, là một loài đại bàng lớn được tìm thấy trong môi trường sống mở và bán mở của châu Phi hạ Sahara. Nó là thành viên duy
**Ilanda Wilds** là khu bảo tồn thiên nhiên dọc theo sông Amanzimtoti ở thị trấn Amanzimtoti, KwaZulu-Natal, Nam Phi. Vùng đất với diện tích nhỏ này (20 ha [49 mẫu Anh]) lại là nơi có
thumb|[[Heroin, một chất Ma Tuý và thuốc phiện mạnh]] **Ma túy** (hay trong khẩu ngữ thường được gọi là **mai thuý**, **đồ**, **hàng trắng**, **chất cấm**) là tên gọi chung chỉ những chất kích thích