✨Tên lửa đẩy nhiên liệu rắn

Tên lửa đẩy nhiên liệu rắn

nhỏ|300x300px| [[Space Shuttle|Phi thuyền không gian được phóng đi nhờ 2 tầng đẩy nhiên liệu rắn, hay còn gọi là SRBs]]

Một Tên lửa đẩy nhiên liệu rắn là tên lửa có động cơ sử dụng nhiên liệu rắn (nhiên liệu/chất oxy hóa). Tên lửa thời kỳ đầu sử dụng nhiên liệu rắn làm bằng bột thuốc súng; chúng được sử dụng trên chiến trường bởi người Trung Quốc, Ấn Độ, Mông cổ, Ba tư, vào thế kỷ thứ 13.

Tất cả các loại tên lửa được sử dụng nhiên liệu dạng rắn hoặc thuốc súng, đến tận thế kỷ 20, khi mà tên lửa nhiên liệu lỏng cho thấy chúng cung cấp hiệu suất lớn hơn và có khả năng điều chỉnh đường bay. Tên lửa nhiên liệu rắn vẫn còn tiếp tục sử dụng ngày nay trong quân sự, các mẫu tên lửa mô hình, tầng khởi tốc tên lửa nhiên liệu rắn... vì tính đơn giản và sự đáng tin cậy của nó.

Tên lửa nhiên liệu rắn có thể bảo quản trong ống phóng trong thời gian dài mà không làm giảm sút chất lượng của nhiên liệu, và thực tế là chúng luôn hoạt động một cách tin cậy. Sự thể hiện kém hơn của nhiên liệu rắn so với nhiên liệu lỏng không thiên vị cho sự sử dụng chúng trong các tên lửa mô hỉnh cỡ nhỏ thông thường mà bình thường được sử dụng để đưa lên quỹ đạo các vệ tinh thương mại và các vệ tinh không gian lớn. Nhiên liệu rắn, tuy nhiên, lại được thường xuyên sử dụng như là nhiên liệu cho tầng khởi tốc, nhằm tăng tải trọng hoặc duy trì quay ổn định cho tầng bên trên khi yêu cầu một tốc độ cao hơn mức cần thiết. Tên lửa nhiên liệu rắn được dùng trong các vụ phóng tên lửa lên quỹ đạo thấp với tải trọng dưới 2 tấn hoặc tải trọng thoát lên đến 500 kg.

Nguyên lý cơ bản

[[Tập_tin:Solid-Fuel_Rocket_Diagram.svg|nhỏ|Giản đồ tên lửa nhiên liệu rắn

  1. Hỗn hợp nhiên liệu oxy hóa rắn bên trong tên lửa, với hình trụ rỗng ở giữa
  2. Bộ phận phát hỏa sẽ đốt cháy bề mặt của nhiên liệu rắn.
  3. Phần trụ rỗng đóng vai trò như buồng đốt.
  4. Khí nóng phụt ra qua lỗ phụt, mà có thể điều chỉnh để thay đổi lực đẩy.
  5. Luồng khí phụt.]] Một động cơ tên lửa nhiên liệu rắn bao gồm vỏ, phễu thoát khí, bộ phận kích nổ, thành phần nhiên liệu rắn dạng hạt.

Hạt nhiên liệu rắn bị đốt cháy với khối lượng lớn theo công thức cố định để sản sinh ra khí phụt tuân theo định luật dòng chảy Taylor–Culick. Kích thước của miệng xả được tính toán nhằm duy trì áp suất trong buồng cháy trong khi luồng khí đang được xả ra ngoài.

Một khi đã được kích hoạt, động cơ nhiên liệu rắn sẽ không dừng lại mà sẽ cháy đến hết vì nó chứa tất cả các thành phần gây cháy bên trong buồng đốt. Những động cơ rắn tiên tiến hơn có thể tự tắt, rồi lại được kích hoạt trở lại thông qua điều khiển hình dạng của miệng xả hoặc thông qua các lỗ xả. Ngoài ra, động cơ xung có thể đốt cháy phân đoạn và có thể kích hoạt theo lệnh điều khiển.

Các thiết kế hiện đại có bao gồm miệng xả có thể chỉnh hướng, cải tiến về điện tử, mang theo dù để thu hồi, cơ chế tự hủy, động cơ có thể điều khiển, motor điều khiển hướng, mô tơ điều chỉnh thay đổi độ cao, vật liệu phủ bảo vệ nhiệt

Lịch sử

Triểu Tống cổ đại là những người đầu tiên phát minh và sử dụng thuốc phóng nhiên liệu rắn. Ghi chép Huolongjing của nhà lịch sử quân sự/ triết gia thời Minh Jiao Yu đã khẳng định người Trung Quốc đã sử dụng thuốc phóng rắn trong một thứ gọi là "hỏa tiễn", trong đó, người ta gắn một ống có chứa thuốc súng lên một cây gây, đóng vai trò như là để điều chỉnh hướng bắn cho mũi tên. Người Trung Quốc đã sử dụng vũ khí này trong cuộc chống lại sự bao vây của quân Mông Cổ trong trận bao vây Khai Phong

Động cơ nhiên liệu rắn đã được phát minh bởi kỹ sư hàng không người Mỹ Jack Parsons tại Caltech năm 1942, ông đã thay thế nguyên liệu 2 thành phần bằng asphalt và KClO4. Động cơ với nhiên liệu mới cháy chậm hơn đã đảm bảo phù hợp về kích thước và thời gian hoạt động cho các tên lửa hỗ trợ cất cánh (JATO). Sau đó, Charles Bartley, nhân viên phòng thí nghiệm lực đẩy JPL (Caltech), thay thế asphalt bằng chất liệu cao su tổng hợp, cho phép tạo ra nhiên liệu hỗn hợp rắn có khả năng đàn hồi và giữ hình dạng hình học, từ đó giúp các kỹ sư có thể tạo ra được các động cơ tên lửa cỡ lớn. Công ty Atlantic thậm chí còn đưa tra một hỗn hợp nhiên liệu rắn giúp nhiên liệu có thời gian cháy kéo dài hơn nữa bằng cách thêm bột nhôm vào, thành phần bột nhôm chiếm 20% thành phần nhiêu liệu tên lửa.

Kỹ thuật Tên lửa nhiên liệu rắn đã được phát triển cả về kích cỡ và năng lực của nó trong suốt những năm giũa thế kỷ 20, nhằm mục đích sử dụng trong quân sự. Sau những phát triển ban đầu về tên lửa liên lục địa nhiên liệu lỏng vào những năm 1940s và 1950s, cả Liên Xô và Mỹ đã bắt tay vào chế tạo tên lửa chiến thuật tầm ngắn, tầm trung và liên lục địa bao gồm cả phiên bản phóng từ mặt biển/ trên không.

Tính đến cuối những năm 1980s và tiếp tục đến năm 2020, nhiều nước đã tiến hành phát triển công nghệ tên lửa nhiên liệu rắn dùng cho các chuyến bay trong quỹ đạo, phần lớn các thiết kế là sử dụng động cơ tên lửa nhiên liệu rắn, như là một lực đẩy phụ trong giai đoạn bắt đầu phóng, cung cấp lực nâng phụ trợ cho động cơ chính nhiên liệu lỏng. Một số thiết kế sử dụng động cơ nhiên liệu rắn ở các tầng trên của tên lửa, ví dụ như dòng tên lửa Proton của Nga, tên lửa Ariane 5 của châu Âu, Atlas V của Mỹ hay như tên lửa H-II của Nhật.

Động cơ tên lửa nhiên liệu rắn lớn nhất từng được phát triển là 3 động cơ tên lửa nhiên liệu rắn mỗi chiếc có đường kích 6,6m của Aerojet tại Florida. Động cơ 260 SL-1 và SL-2 có đường kính 6,63m, dài 24,59m và nặng 842.900 kg, nó có lực đẩy tối đa là 16 MN. Thời gian cháy là 2 phút. Miệng xả lớn đến nỗi có thể đi bộ bên trong. Động cơ có khả năng hoạt động tương đương với 8 động cơ nhiên liệu lỏng Saturn Itầng khởi động nhưng không được đưa vào sử dụng. Động cơ 260 SL-3 có kích thước và khối lượng tương đương nhưng có lực đẩy tối đa cùng với thời gian cháy ngắn hơn.

Thiết kế

Việc thiết kế bắt đầu với yêu cầu về lực đẩy, mà sẽ quyết định đến khối lượng nhiên liệu và chất oxy hóa. Hình dạng hạt nhiên liệu và thành phần hóa học sau đó sẽ được lựa chọn để thỏa mãn tính năng động cơ yêu cầu.

Những điều sau được chọn theo kinh nghiệm theo mô phỏng. Kết quả sẽ cho chính xác kích thước của hạt nhiên liệu, ống xả, và hình dạng vỏ tên lửa:

  • Tốc độ cháy của Hạt nhiên liệu dự tính được, cho phép đưa ra diện tích bề mặt và áp suất buồng đốt.
  • Áp suất buồng đốt được quyết định dựa theo đường kính miệng xả và tốc độ cháy của hạt nhiên liệu.
  • Áp suất cho phép của buồng đốt là hàm số dựa theo thiết kế của vỏ ngoài.
  • Khoảng thời gian đốt nhiên liệu được quyết định dựa vào độ dầy của mạng hạt nhiên liệu.

Hạt nhiên liệu có thể hoặc không được ép chặt với vỏ (bonded to the casing). Động cơ nhiên liệu rắn với vỏ thiết kế khó hơn vì sự biến dạng của bỏ và hạt nhiên liệu trong quá trình bay phải tương thích nhau.

Những kiểu lỗi của động cơ nhiên liệu rắn bao gồm sự đứt rạn của hạt nhiên liệu, sự thiếu kết nối lớp vỏ, và lỗ hổng không khí trong hạt nhiên liệu. Những điều này gây ra tăng tức thời trên bề mặt đốt cháy, làm tăng áp suất khí phụt, có thể làm vỡ nứt vỏ động cơ.

Một lỗi khác là mối hàn (seal) của vỏ, mối hàn là cần thiết trong trường hợp cần mở để nạp nhiên liệu rắn, một khi mối hàn bị rò rỉ, khí nóng sẽ bị thoát ra ngoài. Đây cũng chính là lỗi đã gây nên thảm họa tàu con thoi Challenger.

Dạng hạt nhiên liệu

Nhiên liệu rắn cháy bắt đầu từ bề mặt nhiên liệu trong buồng đốt. Tại giai đoạn này, hình dạng của lõi rỗng của khoang nhiên liệu rắn sẽ đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến khả năng của động cơ. Khi bề mặt nhiên liệu cháy, hình dạng của nó sẽ thay đổi, phần lớn thường chuyển từ bề mặt nhiên liệu sang dạng khí cháy hỗn hợp, lúc này lõi giữa chính là buồng đốt. Do thể tích nhiên liệu bằng với diện tích thiết diện As nhân với chiều dài của thanh nhiên liệu, thì tỉ lệ thể tích nhiên liệu tiêu thụ là diện tích tiết diện nhân với tỉ lệ cháy ḃ, và đạo hàm của khối lượng theo thời gian của khí cháy sẽ bằng khối lượng riêng của nhiên liệu nhân với tỉ lệ thể tích

:\dot{m} = \rho \cdot A_s \cdot \dot{b}

Một vài dạng hay được sử dụng và dạng đường cong lực đẩy:

Tập tin:Circ ex.jpg|Mô phỏng theo đường bo tròn Tập tin:Cslot ex.jpg|Mô phỏng kiểu đường rãnh - C Tập tin:Moon ex.jpg|Mô phỏng cháy dạng mặt trăng Tập tin:Fino ex.jpg|Nhiên liệu dạng hình sao
  • Dạng bo tròn: trong hình dạng được mô phỏng trong Hệ thống thử nghiệm và đánh giá đạn đạo, sản sinh ra đường con lực tăng dần- giảm dần.
  • Đốt cuối: nhiên liệu được đốt đầu này đến đầu kia dọc theo 1 trục, dạng này sản sinh ra một kỳ cháy lâu, ổn định, dù cho khó khăn trong vấn đề nhiệt, dịch chuyển thay đổi trọng tâm.
  • C-slot: nhiên liệu với dạng nêm bị cắt một phía, cho phép sản sinh một lực đẩy đủ dài, khó khăn về vấn đề nhiệt và tính không đối xứng của trọng tâm.
  • Moon burner: Lỗ dạng tròn lệch tâm sản sinh ra một chu trình dài tăng lực đẩy- giảm lực đẩy, nhưng gây ra sự không đối xứng trọng tâm nhẹ.
  • Dạng hình sao: thường sử dụng dạng sao 5-6 cánh có thể sản sinh lực đẩy có đường cong dạng rất bằng phẳng, với đốt cháy nhanh hơn dạng lỗ tròn nhằm do diện tích bề mặt đốt lớn hơn.

Lớp vỏ

Lớp vỏ có thể sử dụng nhiều loại vật liệu khác nhau. Bìa các tông được sử dụng cho các động cơ nhiên liệu rắn nhỏ sử dụng bột đen không khói, trong khi nhôm được sử dụng rộng rãi hơn cho các động cơ cỡ lớn đa nhiên liệu. Thép được sử dụng trong tầng khởi tốc của phi thuyền không gian. Các động cơ nhiên liệu rắn hiệu năng cao sử dụng sợi cacbon polymer dự ứng lực.

Vỏ phải được thiết kế sao cho chịu được áp suất và ứng suất của động cơ, kể cả ở nhiệt độ cao, vỏ bao gồm lớp vỏ chịu áp suất.

Để bảo vệ khỏi nhiệt từ khí nóng, còn có bổ sung thêm lớp cách nhiệt bên trong vỏ, giúp bảo vệ trong quá trình động cơ hoạt động, lớp này sẽ bị phá hủy dần để kéo dài tuổi thọ của vỏ động cơ.

Miệng xả

Một miệng phụt Laval được thiết kế để sao cho luồng khí nóng thoát ra ngoài và sinh ra lực đẩy. Miệng xả phải được làm bằng vật liệu chịu nhiệt. Thông thường sử dụng vật liệu chịu nhiệt gốc cacbon, như graphite và carbon-carbon.

Một số thiết kế bao gồm cả thay đổi hướng luồng phụt bằng cách xoay cả toàn bộ ống xả, như ở trên tàu con thoi SRBs, bằng việc sử dụng van phản lực ở trên miệng xả như trên tên lửa V-2 hoặc bởi công nghệ thay đổi vector lực đẩy bằng vòi phun lỏng (LITV).

Tầng đầu tiên của tên lửa liên lục địa Minuteman sử dụng 1 động cơ với 4 miệng xả (có trục các đăng) cung cấp khả năng xoay, lật, quay tên lửa.

LITV là công nghệ chỉnh hướng phụt vằng vòi phun nhiên liệu lỏng thẳng vào dòng khí xả của tên lửa. Chất lỏng bay hơi và trong phần lớn các trường hợp phản ứng hóa học, sẽ giúp tăng thêm khối lượng dòng chảy về một phía của luồng phụt, do đó tạo ra lực đẩy điều khiển. Ví dụ, tầng đẩy nhiên liệu rắn của tên lửa đẩy Titan IIIC sử dụng chất lỏng là nitrogen teroxit để điều chỉnh luồng phụt, buồng chứa chất lỏng này có thể nhìn thấy ở 1 phía của tên lửa, giữa tầng chính trung tâm và tầng khởi tốc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|300x300px| [[Space Shuttle|Phi thuyền không gian được phóng đi nhờ 2 tầng đẩy nhiên liệu rắn, hay còn gọi là SRBs]] Một **Tên lửa đẩy nhiên liệu rắn** là tên lửa có động cơ sử
**Phương tiện phóng vệ tinh đồng bộ địa tĩnh Mark III** _(tiếng Anh: Geosynchronous Satellite Launch Vehicle Mark III (GSLV Mk III)_, hay còn gọi đơn giản là Phương tiện phóng Mark 3 _(Launch Vehicle
**Delta** là dòng các phương tiện phóng tàu vũ trụ được Mỹ sử dụng từ năm 1960. Đã có hơn 300 tên lửa Delta được phóng lên, với tỉ lệ 95% lượt phóng thành công.
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
**Tên lửa đẩy Vanguard** là loại tên lửa đẩy được dự kiến trở thành tên lửa đẩy phóng vệ tinh đầu tiên của Mỹ lên quỹ đạo. Tuy nhiên, việc Liên Xô phóng vệ tinh
phải|nhỏ|Tên lửa liên lục địa Hoa Kỳ Atlas-A **Tên lửa liên lục địa**, **tên lửa xuyên lục địa**, **tên lửa vượt đại dương**, còn được biết đến với ký tự tắt **ICBM** (viết tắt của
phải|nhỏ|So sánh các cấu hình tên lửa, tháng 4 năm 1962, từ trái sang phải là tên lửa Saturn I, Saturn V và "Nova C8". (Mỗi cấu hình đều bao gồm một tầng đẩy bổ
**Juno I** là một tên lửa đẩy phóng vệ tinh bốn tầng của Mỹ. Đây là loại tên lửa đã đưa vệ tinh đầu tiên của Mỹ- Explorer 1 lên quỹ đạo vào năm 1958.
nhỏ|phải|Tên lửa Redstone của [[chương trình Mercury]] alt=|thumb|Tên lửa [[Soyuz TMA-9 được phóng đi ở trung tâm vũ trụ Baykonur, Site 1/5 ở Kazakhstan]] Mô hình tên lửa **Tên lửa** hay **hỏa tiễn** là một
**BGM-109 Tomahawk** là loại tên lửa hành trình với nhiều biến thể, có khả năng mang đầu đạn hạt nhân, được phóng đi từ các hệ thống phóng mặt đất, chiến hạm hoặc tàu ngầm
**Delta II** là một tên lửa vũ trụ (hay hệ thống phóng vào vũ trụ) nguyên được thiết kế và đóng bởi công ty McDonnell Douglas, sau đó được đóng bởi Integrated Defense Systems là
**Tàu con thoi**, là một hệ thống tàu vũ trụ quỹ đạo thấp có thể tái sử dụng, được vận hành bởi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA). Tên chính thức
Mô hình động cơ tên lửa nhiên liệu rắn **Động cơ tên lửa** là động cơ phản lực trong đó chứa toàn bộ nguồn môi chất làm việc và nguồn năng lượng, trong quá trình
phải|nhỏ|Tên lửa nghiên cứu [[Black Brant (rocket)|Black Brant 12 do Bristol Aerospace sản xuất.]] phải|nhỏ|Động cơ trên tầng 2 của tên lửa [[LGM-30 Minuteman#Minuteman-III (LGM-30G)|Minuteman III ]] **Tên lửa nhiều tầng đẩy** (tiếng Anh: **multistage
**Atlas** là một dòng tên lửa đẩy của Mỹ phát triển dựa trên tên lửa đạn đạo liên lục địa SM-65 Atlas. Chương trình tên lửa đạn đạo liên lục địa Atlas ban đầu được
**Nhiên liệu năng lượng cao** ( - **HEF**), còn gọi là **nhiên liệu Zip** (_Zip fuel_), là tên chung cho các nhiên liệu phản lực chứa các hợp chất hydro-boron, hay là _boranes_. Nhiên liệu
nhỏ|Nhiên liệu máy bay phản lực **Nhiên liệu máy bay phản lực (JetGas)** là nhiên liệu trong ngành hàng không được sử dụng cho các máy bay phản lực hay các động cơ phản lực
**Tên lửa chống tên lửa đạn đạo** (_anti-ballistic missile_ - ABM) là một tên lửa được thiết kế để chống lại các tên lửa đạn đạo (một tên lửa dùng để phòng thủ tên lửa).
Các loại tên lửa đạn đạo thường có đường bay theo từng pha-giai đoạn riêng biệt. Chúng lần lượt là các pha: **khởi tốc (tăng tốc)**, là pha mà tại đó, động cơ tên lửa
**Type 88** (88式地対艦誘導弾) hay **SSM-1** là loại tên lửa đất đối hạm do tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries phát triển và được trang bị cho Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản. Nó được
Tên lửa **R-21** (; NATO: **SS-N-5 'Sark/Serb**'; GRAU: **4K55**) là một loại tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm trong trang bị của Hải quân Liên Xô từ năm 1963 đến năm 1989. Đây
**3M-54 Klub** là một tổ hợp tên lửa hành trình đa năng do Phòng thiết kế Novator (OKB-8) của Nga phát triển. Tên ký hiệu NATO của tổ hợp tên lửa này là **SS-N-27**. Hiện
**Shiki 80** (80式空対艦誘導弾, はちまるしきくうたいかんゆうどうだん) là loại tên lửa không đối hạm được lực lượng phòng vệ Nhật Bản thông qua để đưa vào phục vụ từ năm 1980. Loại này còn được biết với tên
thumb|Ống phóng tên lửa của Type 87 là loại tên lửa chống tăng dẫn đường bằng laser của Nhật Bản, hiện đang được trang bị cho JGSDF. Nó được tạo ra để thay thế cho
Tàu ngầm lớp Yankee II **RSM-45** **R-31** (tên định danh của NATO - **SS-N-17 Snipe**) là một loại tên lửa SLBM của Liên Xô. Việc phát triển tên lửa bắt đầu vào đầu thập niên
Tên **lửa UGM-27 Polaris** là một tên lửa đạn đạo hai tầng nhiên liệu rắn phóng từ tàu ngầm. Đây là SLBM đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ, nó được trang bị từ năm
**Titan** là tên một dòng tên lửa đẩy sử dụng một lần của Hoa Kỳ sử dụng trong giai đoạn từ năm 1959 đến 2005. Titan I và Titan II là 2 loại tên lửa
phải| Một tên lửa tầm dài không đối không [[AIM-54 Phoenix của Hải quân Hoa Kỳ phóng từ máy bay chiến đấu F-14 Tomcat.]] **Tên lửa không đối không** (air-to-air missile: **AAM**) là tên lửa
**MGM-29 Sergeant** là loại tên lửa đất đối đất nhiên liệu rắn tầm ngắn của Lục quân Mỹ được phát triển bởi Jet Propulsion Laboratory. Tên lửa được chế tạo bởi công ty Sperry Utah.
nhỏ|Nhiên liệu hypergolic [[hydrazine đang được nạp vào vệ tinh_MESSENGER_. Kỹ thuật viên bắt buộc phải mặc bộ đồ bảo hộ do tính độc hại của nhiên liệu.]] **Chất đẩy Hypergolic** là một loại nhiên
**Lữ đoàn 679** là đơn vị tên lửa đất đối hải thuộc Vùng 1 Hải quân - 1 trong 5 binh chủng nòng cốt của Hải quân nhân dân Việt Nam. ## Lịch sử Trong
**Titan IIIC** là hệ thống phóng tàu vũ trụ dùng một lần, do Không quân Mỹ vận hành từ năm 1965 đến năm 1982. Nó là phiên bản tên lửa đầu tiên trong dòng tên
thumb|upright=1.35|Lần đầu tiên máy bay cất cánh có động cơ tên lửa hỗ trợ, ở đây là động cơ GALCIT trên [[ERCO Ercoupe, sân bay March, California, 1941.]] **JATO** (viết tắt của **jet-assisted take-off** hay
**Chương trình Mercury** là chương trình đưa người vào vũ trụ đầu tiên của Hoa Kỳ. Nó diễn ra từ năm 1959 đến năm 1963 với mục đích đặt con người lên quỹ đạo vòng
**K-300P _Bastion-P**_ (tên ký hiệu của NATO: **SSC-5**) là hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển di động do Nga cùng công ty _Tekhnosoyuzproekt_ của Belarus phát triển. Hiện có 3 quốc gia đang
**Artemis I**, trước đây gọi là **Exploration Mission-1**, là một sứ mệnh phóng tên lửa không người lái bay quay quanh Mặt Trăng. Đây là chuyến bay vũ trụ đầu tiên trong chương trình Artemis
FMV-B1 là loại vũ khí phá vật cản sử dụng động cơ tên lửa đẩy nhiên liệu rắn do Viện Tên lửa- Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự (Bộ Quốc phòng) nghiên cứu
**Juno II** là phương tiện phóng vệ tinh được Mỹ sử dụng trong giai đoạn cuối thập niên 1950 và đầu những năm 1960. Nó được thiết kế dựa trên tên lửa PGM-19 Jupiter với
P-700 Granit. **P-700 _Granit**_ (; ) là một tên lửa chống hạm của hải quân Nga và Liên Xô (cũ). Nó có tên mã định danh GRAU là **3M45**, tên ký hiệu NATO là **SS-N-19
**Valentin Petrovich Glushko** (, _Valentin Petrovich Glushko_; , _Valentyn Petrovych Hlushko_; sinh ngày 2/09/1908 – 10/1/1989), là kỹ sư và nhà thiết kế tên lửa Liên Xô và có đóng góp trong giai đoạn Liên
**_Panicum virgatum_**, một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo, thường được biết đến với tên gọi "switchgrass", là một loại cỏ bụi sống lâu năm mọc bản địa ở Bắc Mỹ vào
, optional--> |width = |empty = |gross = |propmass = |engines = |solid = |thrust = |SI = |burntime = |fuel = LOX / RP-1 , optional--> |diameter = |width = |empty = |gross =
**Kh-59 _Ovod**_ ( Овод 'Gadfly'; **AS-13 'Kingbolt**') là một loại tên lửa hành trình dẫn đường của Nga, với hệ thống đẩy nhiên liệu rắn hai tầng. **Kh-59M _Ovod-M_** (**AS-18 'Kazoo**') là một biến thể
**P-800 Oniks** (Tiếng Nga: **П-800 Оникс**, có tên khác là **Яхонт** (**Yakhont**) là tên xuất khẩu, "Oniks" có nghĩa là ngọc mã não (Onyx), "Yakhont" là hồng ngọc) là tên lửa hành trình/chống hạm/tấn công
thumb|Giếng phóng của tên lửa [[RT-23 Molodets (SS-24) tại Bảo tàng Lực lượng tên lửa chiến lược, Ukraine.]] Giếng phóng tên lửa đạn đạo, hay đầy đủ hơn là tổ hợp phóng tên lửa đạn
Tàu trên sông bắn lửa [[napan từ súng phun lửa trong chiến tranh Việt Nam]] **Súng phun lửa** là một loại vũ khí hoàn toàn có thể phun ra lửa nhằm tiêu diệt hoặc sát
nhỏ|phải|[[Tàu con thoi Discovery|Tàu _Discovery_ của NASA phóng lên vào ngày 26 tháng 7 năm 2005]] **Phi thuyền** (; ) là tên gọi chung của các thiết bị với chức năng là thực hiện nhiều
Huy hiệu của tàu con thoi **Tàu con thoi** của NASA, chính thức được gọi là **Space Transportation System** (**STS**), nghĩa là "Hệ thống Chuyên chở vào Không gian", từng là phương tiện phóng tàu
Ariane-5 là một tên lửa đẩy (TLĐ) thuộc họ tên lửa Ariane, thường được sử dụng để đưa các tải trọng vào quỹ đạo truyền địa tĩnh (GTO), hoặc quỹ đạo Trái Đất thấp (LEO).
**Boeing CQM-121 Pave Tiger** là một loại máy bay không người lái (UAV) chống radar do Boeing phát triển và chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ. Quá trình phát triển UAV này đạt đến