✨Titan (dòng tên lửa)

Titan (dòng tên lửa)

Titan là tên một dòng tên lửa đẩy sử dụng một lần của Hoa Kỳ sử dụng trong giai đoạn từ năm 1959 đến 2005. Titan I và Titan II là 2 loại tên lửa đạn đạo liên lục địa của Không quân Hoa Kỳ sử dụng cho tới năm 1987. Dòng tên lửa đẩy Titan bắt nguồn từ sửa đổi hai loại tên lửa ICBM này, tên lửa dòng Titan đã thực hiện tổng cộng 368 vụ phóng, bao gồm cả chương trình Gemini đưa người vào không gian vào giữa những năm 1960. Phương tiện phóng không gian Titan cũng được sử dụng để phóng vào vũ trụ các tải trọng vệ tinh quân sự cho quân đội Hoa Kỳ cũng như các vệ tinh trinh sát dân sự và các tàu thăm dò hành tinh.

Titan I

nhỏ|Tên lửa ICBM Titan I HGM-25A Titan I, được phát triển và chế tạo bởi công ty hàng không Glenn L. Martin, là phiên bản đầu tiên của họ tên lửa Titan. Ban đầu đây là chương trình chế tạo tên lửa dự phòng cho trường hợp chương trình tên lửa SM-65 Atlas chậm tiến độ. HGM-25A Titan I là một tên lửa hai tầng ICBM được đưa vào trang bị trong Không quân Hoa Kỳ từ năm 1962 đến giữa năm 1965, tên lửa trang bị động cơ LR-87 sử dụng nhiên liệu RP-1 (kerosene) cùng với Oxy lỏng (LOX). HGM-25A Titan I sử dụng máy tính điều khiển UNIVAC ATHENA do Seymour Cray thiết kế. Tên lửa được phóng từ căn cứ boongke dưới lòng đất. Sử dụng dữ liệu từ radar, tên lửa có khả năng hiệu chỉnh đường bay.

Không giống như các tên lửa đạn đạo Thor, Atlas, và Titan II, tên lửa đạn đạo Titan I đã hoàn toàn bị tháo dỡ và không bao giở được sử dụng lại với vai trò là phương tiện phóng vũ trụ hoặc thử nghiệm phương tiện hồi quyển (RV). Toàn bộ các cơ sở hỗ trợ cho tên lửa Titan I đã được chuyển sang cho dòng tên lửa Titan II/III từ năm 1965.

Titan II

Tên lửa Titan II

Phần lớn tên lửa Titan là tên lửa ICBM Titan II cùng với các ICBM Titan II đã được chuyển đổi làm phương tiện phóng tàu vũ trụ cho NASA. Titan II sử dụng động cơ LR-87-5, một phiên bản của động cơ LR-87, sử dụng chất đẩy hypergolic, là sự kết hợp của nitrogen tetroxide (NTO) với vai trò là chất oxy hóa cùng với Aerozine 50 (hỗn hợp 50/50 của hydrazine và Unsymmetrical dimethylhydrazine (UDMH) làm nhiên liệu thay thế cho oxy lỏng và nhiên liệu RP-1 của tên lửa Titan I.

Hệ thống dẫn đường quán tính của tên lửa Titan II được chế tạo bởi AC Spark Plug. Tên lửa sử dụng máy tính điều khiển IBM ASC-15. Tuy nhiên do hệ thống này càng ngày càng khan hiếm, nó đã được thay thế bởi hệ thống dẫn đường quán tính Universal Space Guidance System (USGS) của Delco Electronics hiện đại hơn. Hệ thống USGS cũng được sử dụng trên phương tiện phóng tàu vũ trụ Titan III, giúp giảm giá thành bảo trì hệ thống 72 triệu đô la mỗi năm.

Chất đẩy Hypergolic

Oxy lỏng rất nguy hiểm khi sử dụng trong không gian kín, ví dụ như trong giếng phóng tên lửa, và cũng không thể lưu trữ trong thời gian dài trong bình chứa tên lửa. Một vài tên lửa Atlas và Titan I đã bị nổ và phá hủy cả giếng phóng. Martin Company đã tiến hành thiết kế loại tên lửa Titan II mới, để loại bỏ những khiếm khuyết này. Chất đẩy RP-1/Oxy lỏng được thay thế bằng chất đẩy Hypergolic mới không cần thiết bị lưu trữ siêu lạnh. Nhiên liệu hypergolic khi tiếp xúc với chất oxy hóa sẽ ngay lập tức bốc cháy, tuy nhiên, chúng cũng là những chất lỏng ăn mòn và có tích độc hại rất cao. Nhiên liệu là loại Aerozine 50, một hỗn hợp theo tỉ lệ 50/50 giữa hydrazine và UDMH, và chất ô xy hóa là Dinitrogen tetroxide.

Tai nạn tại giếng phóng tên lửa

Đã xảy ra nhiều tai nạn đối với giếng phóng tên lửa Titan II gây ra thiệt hại về nhân mạng. Tháng 8 năm 1965, 53 công nhân xây dựng đã thiệt mạng tại Arkansas khi mà đường ống thủy lực của tên lửa Titan II bắt lửa từ que hàn ở cách đó một dặm đông bắc Searcy. Tên lửa nhiên liệu lỏng đã bị nghiêng đi do rò rỉ nhiên liệu độc hại.

Tại một giếng phóng đặt tại Rock, Kansas, ống dẫn chất oxy hóa Dinitrogen tetroxide bị vỡ vào ngày 14/8/1978. Cột khói độc màu vàng cam sau đó đã khiến 200 cư dân buộc phải di tản khỏi khu vực sinh sống. Chỉ huy trưởng của đội nhân viên bảo trì tên lửa đã thiệt mạng trong khi nỗ lực giải cứu, cùng với tổng cộng 20 người phải nhập viện.

Một vụ việc khác xảy ra tại Potwin, Kansas dẫn đến rò rỉ Dinitrogen tetroxide vào tháng 4 năm 1980, không có tổn thất về người, cơ sở này sau đó đã bị đóng cửa.

Tháng 9 năm 1980, tại giếng phóng tên lửa ICBM Titan II số 374-7 gần Damascus, Arkansas, một nhân viên kỹ thuật đã đánh rơi vật nặng từ độ cao , làm vỡ vỏ tầng 1 của tên lửa, Nhiên liệu tên lửa bị rò rỉ đã phát nổ và thổi bay đầu đạn hạt nhân nặng ra khỏi giếng phóng. Đầu đạn hạt nhân không bị kích hoạt và rơi xuống cách giếng phóng vài trăm feet. Tổng cộng có 1 người thiệt mạng và 21 người bị thương, tất cả đều thuộc đội phản ứng nhanh của căn cứ không quân Little Rock. Vụ nổ cũng thổi bay nắp che giếng phóng nặng 740 tấn văng cao và tạo một miệng hố có đường kính .. Sau khi xảy ra tai nạn, tên lửa Titan II đã được lại biên dần khỏi trang bị của Không quân Hoa Kỳ.

Loại biên

54 tên lửa Titan II tại Arizona, Arkansas, và Kansas

Phương tiện phóng Titan II

Tên lửa đẩy Titan II nổi tiếng nhờ được sử dụng trong chương trình Gemini đưa người vào vũ trụ giữa những năm 1960 của NASA. Mười hai tên lửa đẩy Titan II GLV được sử dụng để phóng 2 tàu Gemini thử nghiệm không người lái cộng với 10 tàu vũ trụ mang phi hành đoàn 2 người. Tất cả các vụ phóng đều tiến hành thành công.

Titan 23G

Kể từ cuối những năm 1980, một số tên lửa ICBM Titan II sau khi tháo bỏ đầu đạn đã được chuyển đổi thành phương tiện phóng vũ trụ, sử dụng để phóng các tải trọng vệ tinh cho chính phủ Hoa Kỳ. Phiên bản tên lửa Titan 23G bao gồm 2 tầng đẩy, sử dụng nhiên liệu lỏng. Tầng 1 sử dụng 1 động cơ Aerojet LR87 với 2 buồng đốt và 2 miệng xả khí, tầng 2 sử dụng động cơ LR91.

Đã có 13 vụ phóng tên lửa được thực hiện từ căn cứ không quân Vandenberg kể từ năm 1988.

Hình ảnh

Titan II launch.jpg|Titan II ICBM Gemini-Titan 11 Launch - GPN-2000-001020.jpg|Titan II GLV Titan 23G rocket.gif|Titan 23G

Titan III

Phiên bản Titan III dựa trên thiết kế Titan II với việc bổ sung thêm động cơ đẩy nhiên liệu rắn khởi tốc ở 2 bên (tiếng Anh: Solid rocket booster-SRB). Tên lửa Titan III được thiết kế là một tên lửa đẩy hạng nặng phục vụ cho quân đội Hoa Kỳ cũng như các cơ quan tình báo dân sự, ví dụ như vệ tinh Vela Hotel chuyên phát hiện các vụ thử hạt nhân, các tàu thăm dò và vệ tinh gián điệp (thu thập thông tin tình báo), và nhiều loại vệ tinh liên lạc phòng thủ khác.

Titan III vẫn sử dụng động cơ LR-87 giống như tên lửa Titan II (với việc cải tiến dần tính năng qua nhiều năm phát triển), tuy nhiên các biến thể trang bị động cơ SRB có tấm chắn nhiệt bên trên để bảo vệ khỏi luồng phụt từ động cơ SRB và động cơ đã được sửa đổi để khởi động bằng không khí (air-starting).

Thiết bị điện tử

Tên lửa Titan III sử dụng đơn vị đo quán tính IMU (tiếng Anh: inertial measurement unit) do AC Spark Plug chế tạo và máy tính điều khiển IBM ASC-15 giống như tên lửa Titan II. Đối với tên lửa Titan III, bộ nhớ máy tính dạng trống của ASC-15 cho phép tăng dung lượng bộ nhớ lên 35%.

Phiên bản tên lửa Titan IIIC cải tiến sử dụng IMU Carousel VB do Delco chế tạo cùng với máy tính điều khiển MAGIC 352 Missile Guidance Computer (MGC).

Titan IIIA

Titan IIIB

Titan IIIC

Titan IIID

Titan IIIE

Titan IIIE là loại tên lửa đẩy dùng để phóng một số tàu vũ trụ trong đó có hai tàu thăm dò Voyager tới Sao Mộc, Sao Thổ và xa hơn nữa, cùng với Chương trình Viking nhằm thiết lập 2 vệ tinh quay xung quanh sao Hỏa và hai tàu đổ bộ lên bề mặt sao Hỏa.

Titan 34D

Tên lửa Titan III thương mại

Dẫn xuất từ Titan 34D và ban đầu được dự tính là phương tiện phóng tàu vũ trụ hạng trung phục vụ cho Không quân Hoa Kỳ, nhưng sau đó Không quân Hoa Kỳ đã lựa chọn tên lửa Delta II. Việc phát triển tên lửa Titan III vẫn được tiếp tục, theo đó, nó sẽ trở thành tên lửa đẩy thương mại. Tên lửa thực hiện chuyến bay lần đầu vào năm 1990.

Titan IIIM

Tên lửa Titan IIIM dự kiến là tên lửa đẩy phóng Manned Orbiting Laboratory và các tải trọng khác. Việc phát triển đã bị hủy bỏ vào năm 1969.

Hình ảnh

Có thể thấy rõ tên lửa Titan IIIC có thêm hai tầng đẩy khởi tốc nhiên liệu rắn SRB hai bên thân. Tập tin:Titan IIIA.jpg|Tên lửa Titan IIIA Tập tin:Titan 23B.jpg|Tên lửa Titan 23B phóng vệ tinh trinh sát KH-8 lên vũ trụ Tập tin:DF-SC-84-05192 cropped.jpeg|Tên lửa Titan IIIC Tập tin:Titan IIID rocket.jpg|Tên lửa Titan IIID Tập tin:Titan 3E Centaur launches Voyager 2.jpg|Tên lửa Titan IIIE mang theo Voyager 2 Tập tin:DF-SC-83-03173 cropped.jpeg|Tên lửa Titan 34D Tập tin:Commercial Titan 3 launching Mars Observer.jpg|Tên lửa Titan 3 mang theo tàu vũ trụ Mars Observer

Titan IV

nhỏ|Tên lửa đẩy Titan IV trên tổ hợp phóng số 40.Tên lửa Titan IV có thiết kế dài hơn tên lửa Titan III với tầng đẩy khởi tốc nhiên liệu rắn ở bên thân tên lửa. Tên lửa Titan IV có khả năng sử dụng tầng đẩy mang tải trọng Centaur, tầng đẩy mang tải trọng Inertial Upper Stage (IUS) của Không quân Mỹ, hoặc không sử dụng tầng đẩy tải trọng. Tên lửa này phần lớn sử dụng cho mục đích phóng tải trọng vệ tinh quân sự và cho CIA. Tuy nhiên, nó cũng được sử dụng cho mục đích khoa học thuần túy, ví dụ như phóng tàu thăm dò sao Thổ Cassini/Huygens cho NASA–ESA vào năm 1997.

Khi bắt đầu được đưa vào chế tạo, tên lửa Titan IV là loại tên lửa đẩy phóng tàu vũ trụ không người lái mạnh nhất của Mỹ, tương ứng cả về chi phí sản xuất và vận hành. Vào thời điểm Titan IV đi vào hoạt động, các yêu cầu của Bộ Quốc phòng và NRO về việc phóng vệ tinh đã giảm dần do sự cải thiện về tuổi thọ của vệ tinh do thám và nhu cầu trinh sát ngày càng giảm sau khi Liên Xô tan rã. Điều này cùng với việc áp dụng các công nghệ mới đã làm cho giá thành mỗi lần phóng tên lửa ngày càng tăng cao.

Cấu hình tên lửa Titan V

Titan V được thiết kế dựa trên Titan IV, theo đó đã có một vài mẫu thiết kế tên lửa được đưa ra. Tên lửa Titan V có kích thước và tải trọng mang lớn hơn Titan IV, với khả năng mang được tải trọng nặng . Tên lửa Titan V được thiết kế sử dụng nhiên liệu siêu lạnh Oxy lỏng (Chất oxy hóa)/Hydro lỏng (Nhiên liệu); tuy nhiên tên lửa đẩy Atlas V đã được lựa chọn để đưa vào sản xuất loạt.

Ngừng hoạt động

Phần lớn các tên lửa ICBM Titan II đã được tân trang lại và sử dụng làm phương tiện phóng cho Không quân Hoa Kỳ, đạt tỉ lệ phóng thành công 100%.

Đối với sứ mệnh đưa vệ tinh vào quỹ đạo, các tên lửa đẩy thường sử dụng nhiên liệu Hydro lỏng hoặc RP-1 (mang lại hiệu suất cao hơn) kết hợp chất oxy hóa là oxy lỏng có nhiều ưu điểm hơn việc sử dụng nhiên liệu hydrazine cùng với chất oxy hóa nitrogen tetroxide rất độc hại, yêu cầu phải có chuyên môn đối với loại nhiên liệu này. Lockheed Martin do đó đã quyết định kéo dài thời gian sử dụng dòng tên lửa đẩy Atlas thay vì sử dụng tên lửa đẩy Titan có giá thành đắt đỏ, đồng thời tham gia liên doanh với Nga để sử dụng tên lửa đẩy Proton hạng trung và tên lửa đẩy Delta IV hạng nặng mới của Boeing. Titan IVB là phiên bản cuối cùng của tên lửa Titan hoạt động với lần phóng cuối cùng diễn ra vào năm 2005 từ căn cứ không quân Vandenberg vào ngày 19/10/2005, mang theo vệ tinh chụp ảnh USA-186 cho National Reconnaissance Office.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Titan** là tên một dòng tên lửa đẩy sử dụng một lần của Hoa Kỳ sử dụng trong giai đoạn từ năm 1959 đến 2005. Titan I và Titan II là 2 loại tên lửa
**Titan IIIC** là hệ thống phóng tàu vũ trụ dùng một lần, do Không quân Mỹ vận hành từ năm 1965 đến năm 1982. Nó là phiên bản tên lửa đầu tiên trong dòng tên
phải|nhỏ|So sánh các cấu hình tên lửa, tháng 4 năm 1962, từ trái sang phải là tên lửa Saturn I, Saturn V và "Nova C8". (Mỗi cấu hình đều bao gồm một tầng đẩy bổ
phải|nhỏ|Tên lửa liên lục địa Hoa Kỳ Atlas-A **Tên lửa liên lục địa**, **tên lửa xuyên lục địa**, **tên lửa vượt đại dương**, còn được biết đến với ký tự tắt **ICBM** (viết tắt của
phải|nhỏ|Tên lửa nghiên cứu [[Black Brant (rocket)|Black Brant 12 do Bristol Aerospace sản xuất.]] phải|nhỏ|Động cơ trên tầng 2 của tên lửa [[LGM-30 Minuteman#Minuteman-III (LGM-30G)|Minuteman III ]] **Tên lửa nhiều tầng đẩy** (tiếng Anh: **multistage
thumb|Khoảng 2 L nhiên liệu RP-1 **RP-1** (hay **Rocket Propellant-1** hoặc **Refined Petroleum-1**) là một loại nhiên liệu tinh chế từ kerosene (gần giống như nhiên liệu phản lực) được sử dụng là nhiên liệu
nhỏ|300x300px| [[Space Shuttle|Phi thuyền không gian được phóng đi nhờ 2 tầng đẩy nhiên liệu rắn, hay còn gọi là SRBs]] Một **Tên lửa đẩy nhiên liệu rắn** là tên lửa có động cơ sử
thumb|Giếng phóng của tên lửa [[RT-23 Molodets (SS-24) tại Bảo tàng Lực lượng tên lửa chiến lược, Ukraine.]] Giếng phóng tên lửa đạn đạo, hay đầy đủ hơn là tổ hợp phóng tên lửa đạn
**N1/L3** (viết tắt của cụm từ , "Carrier Rocket"-"Tên lửa mang"; Cyrillic: **Н1**) là một loại tên lửa đẩy siêu trọng của Liên Xô. Trong đó, N1 là tên của tên lửa đẩy, còn L3
nhỏ|Núi lửa [[Sabancaya, Peru năm 2017]] nhỏ|Dãy núi lửa [[Cordillera de Apaneca tại El Salvador. Quốc gia này có 170 núi lửa, 23 đang hoạt động, gồm hai hõm chảo, một trong hai là siêu
thumb|Titan-II ICBM trong giếng phóng thử nghiệm, căn cứ không quân Vandenberg thumb|Khoang đầu đạn [[thâm nhập khí quyển|hồi quyển Mark 6 có chứa đầu đạn hạt nhân W-53, được sử dụng trên Titan II]]
**Titan** (phát âm tiếng Anh: ˈtaɪtən _TYE-tən,_ tiếng Hy Lạp: _Τῑτάν_) hoặc **Saturn VI** là vệ tinh lớn nhất của Sao Thổ, vệ tinh duy nhất có bầu khí quyển đặc và là vật thể
**_Đại chiến Titan_**, cũng được biết tới với tựa bản tiếng Anh **_Attack on Titan_** và tên gốc tiếng Nhật là một bộ manga Nhật Bản do Isayama Hajime sáng tác. Tác phẩm đặt trong
**Rocketdyne** là một công ty chuyên thiết kế động cơ tên lửa của Mỹ, có trụ sở đặt tại Canoga Park, phía Tây thung lũng San Fernando, ngoại ô Los Angeles, California. Rocketdyne Division được
, optional--> |width = |empty = |gross = |propmass = |engines = |solid = |thrust = |SI = |burntime = |fuel = LOX / RP-1 , optional--> |diameter = |width = |empty = |gross =
**Aerozine 50** là một hỗn hợp của hydrazine và unsymmetrical dimethylhydrazine (UDMH) được trộn theo tỉ lệ 50:50 về trọng lượng, Aerozine được phát triển từ cuối những năm 1950s bởi công ty động cơ
**SM-65 Atlas** là tên lửa đường đạn liên lục địa (ICBM) đầu tiên được phát triển và triển khai bởi Hoa Kỳ. Nó được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ bởi chi nhánh Convair
**Valentin Petrovich Glushko** (, _Valentin Petrovich Glushko_; , _Valentyn Petrovych Hlushko_; sinh ngày 2/09/1908 – 10/1/1989), là kỹ sư và nhà thiết kế tên lửa Liên Xô và có đóng góp trong giai đoạn Liên
nhỏ|Tên lửa Sprint là vũ khí chủ yếu của hệ thống phòng thủ Nike-X. Nó có thể đánh chặn đầu đạn ICBM chỉ vài giây trước khi chúng được kích nổ. **Nike-X** là một tên
Manga và anime _Đại chiến Titan_ bao gồm các nhân vật giả tưởng được tạo ra bởi mangaka Isayama Hajime. Câu truyện lấy bối cảnh khi toàn nhân loại phải sống sau các bức tường
nhỏ|Nhiên liệu hypergolic [[hydrazine đang được nạp vào vệ tinh_MESSENGER_. Kỹ thuật viên bắt buộc phải mặc bộ đồ bảo hộ do tính độc hại của nhiên liệu.]] **Chất đẩy Hypergolic** là một loại nhiên
**Tập đoàn Martin Marietta** tiếng Anh: **Martin Marietta Corporation** là một công ty quốc phòng của Mỹ thành lập năm 1961 với việc sáp nhập Glenn L. Martin Company và Tập đoàn American-Marietta. Công ty
**Lời nguyền của thần Titan **(tựa gốc:** The Titan's Curse**) là một tiểu thuyết phiêu lưu kỳ ảo dựa trên thần thoại Hy Lạp được phát hành năm 2007, đây là tập thứ ba của
**Unsymmetrical dimethylhydrazine** (**UDMH**; **1,1-dimethylhydrazine**; **heptyl**) là một hợp chất hóa học với công thức H2NN(CH3)2 được sử dụng làm chất đẩy cho tên lửa. Nó là một chất lỏng nhớt, không màu, có mùi tanh
**Trận chung kết môn Bóng đá nam tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023** là trận tranh huy chương vàng giữa hai đội tuyển bóng đá U-22 quốc gia Indonesia và Thái Lan,
**Falcon 1** là một thiết bị phóng sử dụng một lần được SpaceX phát triển và sản xuất từ 2006 đến 2009. Vào ngày 28 tháng 9 năm 2008, Falcon 1 trở thành tên lửa
**Các tên lửa Delta IV là** các phiên bản tân tiến nhất từ năm 1960 bắt nguồn từ tên lửa Delta là Delta IV đã được phát triển như một phần của chương trình EELV
**Polybutadiene acrylonitrile** (**PBAN**) hay còn gọi là polybutadiene—acrylic acid—acrylonitrile terpolymer là một hợp chất đồng trùng hợp hay được sử dụng rộng rãi trong nhiên liệu rắn của tên lửa cùng với chất oxy hóa
**Amonia** (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp _ammoniac_ /amɔnjak/), còn được viết là **a-mô-ni-ắc**, Sản lượng amonia công nghiệp toàn cầu năm 2018 là 175 triệu tấn, không có thay đổi đáng kể so với
**_Voyager 2_** là tàu thăm dò không gian được NASA phóng vào ngày 20 tháng 8 năm 1977, để nghiên cứu các hành tinh bên ngoài và không gian giữa các vì sao bên ngoài
**_Voyager 1_** là tàu thăm dò không gian được NASA phóng vào ngày 5 tháng 9 năm 1977, như một phần của chương trình Voyager nhằm nghiên cứu vòng ngoài Hệ Mặt Trời và môi
**Mikoyan-Gurevich MiG-25** (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "**Foxbat**") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết
**_Thợ săn yêu tinh: Titan trỗi dậy_** (tên gốc tiếng Anh: **_Trollhunters: Rise of the Titans_**) là phim điện ảnh hoạt hình máy tính khoa học kỳ ảo của Mỹ ra mắt năm 2021 do
**Sukhoi Su-30 MKI** (MKI nghĩa là _Modernizirovannyi Kommercheskiy Indiski_ trong tiếng Nga) (Cyrillic: Модернизированный Коммерческий Индийский), "Modernized Commercial for India - Hiện đại hóa thương mại cho Ấn Độ"), tên ký hiệu của NATO **Flanker-H**.
**F-4 Phantom II** (**Bóng Ma II**) là một loại máy bay tiêm kích-ném bom đa năng tầm xa siêu thanh hai chỗ ngồi hoạt động trong mọi thời tiết được hãng McDonnell Douglas thiết kế
**Mikoyan MiG-AT** là một loại máy bay huấn luyện của Nga bay lần đầu tiên vào năm 1996, nó được tuyển chọn để thay thế cho Aero L-29 và L-39 đã cũ của Không quân
**Rise and Fall: Civilizations at War** (tạm dịch: _Sự Trỗi dậy và Suy tàn: Chiến tranh giữa các nền Văn minh_) là trò chơi máy tính chiến thuật thời gian thực được hãng Stainless Steel
**YE-8** (tiếng Nga: ОКБ Микояна Гуревича Е-8) là một loại máy bay thử nghiệm được phát triển bởi phòng thiết kế máy bay Mikoyan và Gurevich, Liên Xô, là một máy bay thử nghiệm nằm
thumb|right|[[Convair F-106 Delta Dart]] thumb|right|[[Convair 880]] thumb|right|Tên lửa phòng không [[RIM-2 Terrier trên boong tàu USS _Providence_]] thumb|right|Tên lửa Atlas đang phóng lên trong sứ mệnh [[Friendship 7, sứ mệnh bay đưa người lên quỹ
**Không lực Hoa Kỳ** (tiếng Anh: _United States Air Force_; viết tắt: **USAF**), cũng được gọi là **Không quân Hoa Kỳ** hay đơn giản hơn là **Không quân Mỹ**, là một quân chủng của Quân
**Mikoyan MiG-31** (tiếng Nga: МиГ-31) (tên ký hiệu của NATO: "Foxhound") (cáo săn chồn) là một máy bay tiêm kích đánh chặn siêu âm được phát triển để thay thế cho MiG-25 'Foxbat'. MiG-31 được
**Khinh hạm** **lớp Fridtjof Nansen** (còn được gọi tắt là **lớp Nansen**) là lớp khinh hạm mang tên lửa dẫn đường chủ lực của Hải quân Hoàng gia Na Uy (RNN). Lớp tàu được đặt
**Sukhoi Su-34** (tên ký hiệu của NATO là **Fullback - Hậu vệ**) là loại máy bay cường kích ném bom và tấn công tiên tiến của Nga. Máy bay có 2 chỗ ngồi, nó được
**Lockheed Martin F-22 Raptor** **(Chim săn mồi)** là một máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm sử dụng kỹ thuật tàng hình đầu tiên trên thế giới. Ban đầu nó được thiết kế để
nhỏ|Các mảng kiến tạo trên thế giới được vẽ vào nửa sau của thế kỷ 19. **Kiến tạo mảng** (tiếng Anh: **plate tectonics**; tiếng Hy Lạp: τέκτων _tektōn_, nghĩa là "người xây dựng", "thợ nề")
**Israel Aircraft Industries Kfir** (Hebrew: **כפיר**, "Lion Cub - Sư tử con") là một máy bay tiêm kích đa vai trò, bay trong mọi thời tiết được Israel chế tạo. Nó được phát triển dựa
**Mil Mi-24** là một máy bay trực thăng vũ trang hạng nặng đồng thời có một chút khả năng chở quân bắt đầu hoạt động trong Không quân Xô viết từ năm 1976, sau này
**Antonov An-124 _Ruslan**_ (Tên hiệu NATO: **Condor**) là loại máy bay vận tải lớn nhất từng được sản xuất hàng loạt (trước chiếc Airbus A380),cho tới khi An-225 _Mriya_ xuất hiện,đây từng là chiếc máy
**Cộng hòa Guinea Xích Đạo** (phiên âm tiếng Việt: **Ghi-nê Xích Đạo**; tiếng Tây Ban Nha: _República de Guinea Ecuatorial_) là một quốc gia nằm ở bờ biển phía tây của Trung Phi, với diện
**Mitsubishi F-1** là một loại máy bay phản lực tiêm kích của Lực lượng Phòng vệ trên không Nhật Bản (JASDF) và là máy bay chiến đấu đầu tiên do Nhật Bản tự nghiên cứu,