Tên lửa đẩy Vanguard là loại tên lửa đẩy được dự kiến trở thành tên lửa đẩy phóng vệ tinh đầu tiên của Mỹ lên quỹ đạo. Tuy nhiên, việc Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik 1 trước Mỹ, cùng với sự thất bại của việc phóng tên lửa Vanguard TV-3, đã đẩy nhanh tiến độ đưa vệ tinh Explorer 1 lên quỹ đạo bằng tên lửa đẩy Juno I, khiến cho Vanguard 1 trở thành vụ phóng vệ tinh thành công thứ hai của Mỹ.
Tên lửa đẩy Vanguard đã được sử dụng trong Dự án phóng vệ tinh Vanguard diễn ra từ 1957 đến 1959. Trong số bảy vụ phóng tên lửa có ba lần phóng vệ tinh là thành công. Tên lửa Vanguard đóng vai trò quan trọng trong cuộc chạy đua vào không gian giữa Mỹ và Liên Xô.
Khái quát
Năm 1955, Mỹ công bố kế hoạch đưa vệ tinh nghiên cứu khoa học lên quỹ đạo vào năm Vật lý Địa cầu Quốc tế (IGY)1957–1958. Mục đích là để theo dõi vệ tinh khi nó thực hiện các thí nghiệm. Đã có ba loại tên lửa đẩy được đề xuất: tên lửa SM-65 Atlas của Không quân Mỹ, Lục quân Mỹ đề xuất một tên lửa dựa trên tên lửa PGM-11 Redstone, còn Hải quân Mỹ đề xuất tên lửa ba tầng dựa trên tên lửa Viking. Một chương trình phát triển vệ tinh do thám mang tên Weapon System 117L cũng đang được bí mật thực hiện vào thời điểm này. Một vấn đề với phát triển vệ tinh trinh sát là câu hỏi về tính hợp pháp: Có còn sự "tự do không gian" hay không phận của một quốc gia khi không gian trên quốc gia đó bị xâm phạm? Tên lửa đẩy dựa trên tên lửa Redstone dường như là loại tên lửa duy nhất có thể sẵn sàng tiến hành các vụ phóng vệ tinh, nhưng nó được thiết kế bởi nhà khoa học gốc Đức Wernher von Braun, có thể gây ra rủi ro trong quan hệ công chúng. Milton Rosen, giám đốc phát triển dự án Vanguard của Phòng thí nghiệm nghiên cứu hải quân (NRL), được coi là một tổ chức khoa học hơn là một tổ chức quân sự. Rosen và Richard Porter (Giám đốc phát triển vệ tinh IGY và người đứng đầu Hiệp hội Tên lửa Hoa Kỳ) đều vận động cho việc sử dụng Vanguard thay vì các tên lửa bắt nguồn từ tên lửa quân sự như SM-65 và PGM-11 Redstone của Von Braun. Cả hai đều nhấn mạnh khía cạnh phi quân sự của vệ tinh IGY, cùng với đó là khía cạnh mối quan hệ với công chúng.
Vào tháng 8 hoặc tháng 9 năm 1955, Ủy ban Quốc phòng Hoa Kỳ đã chọn tên lửa đẩy Vanguard của phòng thí nghiệm Hải quân, cho dự án phóng vệ tinh IGY. Công ty Martin, vốn có kinh nghiệm trong chế tạo tên lửa Viking, là nhà thầu chính trong chế tạo tên lửa đẩy mới này. Vanguard được thiết kế là một tên lửa đẩy ba tầng. Tầng đầu sử dụng động cơ nhiên liệu lỏng X-405 của General Electric, có nguồn gốc từ động cơ từng sử dụng trên tên lửa Viking. Tầng hai sử dụng động cơ nhiên liệu lỏng AJ10-37 của Aerojet General, một biến thể của động cơ sử dụng trên tên lửa RTV-N-10 Aerobee. Tầng ba sử dụng động cơ tên lửa nhiên liệu rắn. Tất cả các lần phóng tên lửa Vanguard trừ lần phóng cuối cùng đều sử dụng động cơ chế tạo bởi công ty động lực Lockheed. Vanguard không có cánh vây, và tầng 1 và 2 được điều khiển nhờ động cơ điều chỉnh luồng phụt gimbal. Tầng thứ hai có chứa bộ phận máy truyền tín hiệu, hệ thống dẫn đường quán tính và lái tự động. Tầng thứ ba được ổn định bằng cách tự quay quanh trục giữa khi nó được tách ra từ tầng hai.
Tầng thứ hai của tên lửa Vanguard tiếp tục được sử dụng như là tầng thứ hai của tên lửa đẩy Able và Delta trong nhiều thập kỷ. Động cơ tên lửa AJ10 được trang bị trên tầng này cũng được sửa đổi thành động cơ AJ10-137, chính là động cơ sử dụng trên module phục vụ tàu Apollo. Động cơ AJ10-190, chuyển đổi từ tàu vũ trụ Apollo về sau được sử dụng trên các tàu con thoi. Còn động cơ AJ10-160 được dự kiến sẽ sử dụng trên tàu vũ trụ Orion của NASA.
Các lần phóng vệ tinh
Hai lần phóng tên lửa Vanguard đầu tiên là bằng tên lửa Vanguard TV-0 (Vanguard Test Vehicle-0) vào ngày 8/12/1956 và Vanguard TV-1 vào ngày 23/10/1957. Hai tên lửa này thực chất là tên lửa Viking RTV-N-12a đã qua sửa đổi. Vanguard TV-0 dùng để thử nghiệm hệ thống thiết bị đo đạc-gửi tín hiệu, trong khi Vanguard TV-1 dùng để thử nghiệm quá trình tách tầng tên lửa đẩy (hai tầng) và kích hoạt động cơ nhiên liệu rắn.
Vanguard TV-2, phóng ngày 23 tháng 10 năm 1957, sau vài lần bị trì hoãn, là lần phóng thực sự đầu tiên của Vanguard. Quá trình tách tầng một/hai cùng với việc kích hoạt tự quay tầng thứ ba diễn ra thành công.
Ngày 6 tháng 12 năm 1957, Hải quân Mỹ đã phóng tên lửa Vanguard TV-3, mang theo vệ tinh nặng 1,5 kg, từ Trung tâm phóng tên lửa Mũi Canaveral. Nó đạt cao độ trước khi rơi xuống và phát nổ. Tên lửa dự phòng Vanguard TV-3BU (BU=BackUp), được chuẩn bị cho lần phóng kế tiếp. Các nhân viên mặt đất đã gấp rút sửa chữa những hư hỏng gây ra cho bệ phóng LC-18A từ vụ nổ của Vanguard TV-3, và vào tuần thứ ba của tháng 1 năm 1958, công việc đã hoàn thành. Vanguard TV-3BU đã được dựng lên trên bệ, nhưng việc phóng tên lửa liên tục bị trì hoãn. Mưa lớn đã làm đứt một số dây cáp điện trên mặt đất và chúng phải được thay thế. Tầng tên lửa thứ hai đã được bơm đủ nhiên liệu là acid nitrid và ở trạng thái sẵn sàng trong vài tuần, nhiên liệu đã đã ăn mòn bình chứa và các van, dẫn đến việc phải thay thế bằng một tầng tên lửa mới. Cuối cùng, vụ phóng được tiến hành vào đêm ngày 5 tháng 2 năm 1958. Tên lửa bay tốt trong vòng 57 giây trước khi tầng đẩy chúc xuống góc hơn 40°. Tầng hai của quả tên lửa đã bị vỡ do ứng suất khí động vào bốn giây sau đó, khiến cho sĩ quan điều khiển phải ra lệnh cho tên lửa tự hủy.
Ngày 17 tháng 3 năm 1958, Vanguard TV-4 đã thành công trong việc đưa vệ tinh Vanguard 1 vào quỹ đạo. Nhưng tên lửa Juno I của Lục quân Mỹ trước đó đã phóng thành công vệ tinh Explorer 1, khiến nó trở thành vệ tinh đầu tiên được Mỹ phóng lên quỹ đạo. Vanguard TV-4 đã đưa vệ tinh Vanguard 1 vào quỹ đạo có viễn điểm là 3.966 km, cận điểm là 653 km. Vanguard 1 cùng với tầng tên lửa thứ ba của nó đã trở thành vệ tinh nhân tạo có độ tuổi lớn nhất trên quỹ đạo.
Bốn lần phóng tiếp theo không thành công, bao gồm các lần phóng Vanguard TV-5 và Vanguard SLV-1, Vanguard SLV-2 và Vanguard SLV-3 nhưng lần phóng tên lửa Vanguard SLV-4 cùng với vệ tinh Vanguard 2 ngày 17 tháng 2 năm 1959 đã thành công. Vệ tinh Vanguard 2 có khối lượng .
Vanguard SLV-5 và Vanguard SLV-6 cũng thất bại.
Lần phóng tên lửa đẩy Vanguard cuối cùng vào ngày 18 tháng 9 năm 1959 đã đưa thành công vệ tinh Vanguard 3 nặng lên quỹ đạo. Phi vụ phóng vệ tinh cuối cùng được thực hiện bởi tên lửa Vanguard TV-4BU, nó là tên lửa đẩy TV (Test Vehicle-phương tiện phóng thử nghiệm) còn sót lại, sử dụng tầng tên lửa thứ ba mới X-248A2 Altair nhiên liệu rắn, có lớp vỏ làm từ sợi thủy tinh. Tầng này được chế tạo bởi Phòng thí nghiệm đạn đạo Allegany. Động cơ nhiên liệu rắn mạnh mẽ đã giúp tăng tải trọng của tên lửa. Người ta cũng kết hợp động cơ nhiên liệu lỏng AJ10 và động cơ nhiên liệu rắn X-248 để cấu thành tầng đẩy Able-được sử dụng trên tên lửa đẩy Thor và Atlas sau này.
Các vụ phóng tên lửa
- Vanguard TV3 - ngày 6 tháng 12 năm 1957 - Thất bại
- Vanguard TV3 Backup - Ngày 5 tháng 2 năm 1958 - Thất bại
- Vanguard 1 (Vanguard TV4) - Ngày 17 tháng 3 năm 1958 - Đưa thành công vệ tinh nặng 1,47 kg (3,25 lb) lên quỹ đạo
- Vanguard TV5 - Ngày 28 tháng 4 năm 1958 - Thất bại
- Vanguard SLV-1 - Ngày 27 tháng 5 năm 1958 - Thất bại
- Vanguard SLV-2 - ngày 26 tháng 6 năm 1958 - Thất bại
- Vanguard SLV-3 - ngày 26 tháng 9 năm 1958 - Thất bại
- Vanguard 2 (Vanguard SLV-4) - ngày 17 tháng 2 năm 1959 - Đưa thành công vệ tinh nặng 9,8 kg (21,6 lb) lên quỹ đạo
- Vanguard SLV-5 - ngày 13 tháng 4 năm 1959 - Thất bại
- Vanguard SLV-6 - ngày 22 tháng 6 năm 1959 - Thất bại
- Vanguard 3 (Vanguard TV4-BU, cũng là Vanguard SLV-7) - Đưa thành công vệ tinh nặng 22,7 kg (50 lb) lên quỹ đạo
nhỏ|Vụ phóng tên lửa Vanguard TV-3 thất bại từ Mũi Canaveral ngày 6 tháng 12 năm 1957.
**
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tên lửa đẩy Vanguard** là loại tên lửa đẩy được dự kiến trở thành tên lửa đẩy phóng vệ tinh đầu tiên của Mỹ lên quỹ đạo. Tuy nhiên, việc Liên Xô phóng vệ tinh
**Juno I** là một tên lửa đẩy phóng vệ tinh bốn tầng của Mỹ. Đây là loại tên lửa đã đưa vệ tinh đầu tiên của Mỹ- Explorer 1 lên quỹ đạo vào năm 1958.
phải|nhỏ|Tên lửa nghiên cứu [[Black Brant (rocket)|Black Brant 12 do Bristol Aerospace sản xuất.]] phải|nhỏ|Động cơ trên tầng 2 của tên lửa [[LGM-30 Minuteman#Minuteman-III (LGM-30G)|Minuteman III ]] **Tên lửa nhiều tầng đẩy** (tiếng Anh: **multistage
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
thumb|right|Một tên lửa phòng không vác vai [[9K32 Strela-2 của Liên Xô.]] **Tên lửa phòng không vác vai** hay **Hệ thống tên lửa phòng không vác vai** tên tiếng Anh là **Man-portable air-defense systems** (**MANPADS**
thumb|thumbtime=11|Universal newsreel about the launch of Vanguard 1 **Vanguard 1** (International Designator: **1958-Beta 2** ) là vệ tinh chính thức thứ tư của Trái Đất được phóng thành công (sau Sputnik 1, Sputnik 2, và
**Vanguard TV3**, còn được gọi là **Vanguard Test Vehicle Three** là nỗ lực đầu tiên của Hoa Kỳ để phóng vệ tinh vào quỹ đạo quanh Trái Đất. Vanguard 1A là một vệ tinh nhỏ
**Sputnik 1** (tiếng Nga: Спутник 1, "vệ tinh 1". hay "PS-1", Простейший Спутник-1 hay _Prosteyshiy Sputnik-1_) là vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới do Liên bang Xô Viết chế tạo và được
**HMS _Vanguard**_ là một thiết giáp hạm dreadnought thuộc lớp _St Vincent_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Là chiếc tàu chiến thứ tám của Hải quân Anh mang cái tên này, nó là
**Chương trình Vostok** (, , _Phương Đông_) là chương trình bay vào vũ trụ có người lái của Liên Xô. Đây là chương trình vũ trụ cạnh tranh với chương trình Mercury của Mỹ. Với
nhỏ|phải|Nữ vương Anh [[Elizabeth II và lực lượng sĩ quan ưu tú trong quân đội Anh ở một lễ duyệt binh]] nhỏ|phải|Lực lượng đặc nhiệm của Lính thủy đánh bộ Vương quốc Anh đang tác
**Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ** hay **Cơ quan Hàng không và Không gian Hoa Kỳ**, tên đầy đủ tiếng Anh là **National Aeronautics and Space Administration**, viết tắt là **NASA**, là
thumb|Phóng tàu Explorer 2 **Explorer 2** là một chương trình vệ tinh lặp lại hoàn toàn giống với Explorer 1. Tuy nhiên, do sự thất bại trong tên lửa trong khi phóng nên phi thuyền không
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
nhỏ|Tàu ngầm HMS Astute, loại tàu ngầm hạt nhân tấn công tiên tiến. **Tàu ngầm hạt nhân** (tiếng Anh: Nuclear submarine) là một loại tàu ngầm vận hành nhờ năng lượng sinh ra từ phản
phải|Ảnh hiện tượng [[cực quang được chụp từ tàu con thoi]] **Vệ tinh khí tượng** là một loại vệ tinh nhân tạo được dùng chủ yếu để quan sát thời tiết và khí hậu trên
**HMS _Warspite_ (03)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó từng có mặt trong trận Jutland trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, rồi hoạt động
Nguồn gốc của video game nằm trong quá trình phát triển với ống phóng tia âm cực -dựa trên hệ thống phòng thủ tên lửa vào cuối những năm 1940. Các chương trình này sau
**Trung tâm Chuyến bay Không gian Goddard **(tiếng Anh: **Goddard Space Flight Center**) (**GSFC**) là một phòng thí nghiệm nghiên cứu không gian lớn của NASA nằm cách Washington, D.C. khoảng 6,5 dặm (10,5 km) về
thumb|[[Tàu sân bay trở thành các tàu chiến chủ lực chính của hầu hết các lực lượng hải quân nước xanh dương thời hiện đại. Trong ảnh là tàu sân bay chạy bằng năng lượng
**USS _Missouri_ (BB-63)** (tên lóng "**Mighty Mo**" hay "**Big Mo**") là một thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa của Hải quân Hoa Kỳ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**_Đại chiến Titan_**, cũng được biết tới với tựa bản tiếng Anh **_Attack on Titan_** và tên gốc tiếng Nhật là một bộ manga Nhật Bản do Isayama Hajime sáng tác. Tác phẩm đặt trong
**HYDRA** là một tổ chức khủng bố hư cấu xuất hiện trong các tập truyện tranh của Marvel Comics. Tên gọi "HYDRA" có nguồn gốc từ con quái vật Hydra trong thần thoại. Câu khẩu
**_Essex_** là một lớp tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, vốn đưa ra số lượng tàu chiến hạng nặng với số lượng nhiều nhất trong thế kỷ 20, với tổng cộng 24 tàu
Con tem Liên Xô vẽ hình quỹ đạo Sputnik bay quanh Trái Đất **Khủng hoảng Spunik** là những phản ứng của Hoa Kỳ trước thành công của chương trình Sputnik. Đây là một sự kiện
**USS _Huse_ (DE-145)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Edsall_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**Lục quân Đại Hàn Dân Quốc** (; - **ROKA**), ngắn gọn hơn là **Lục quân Hàn Quốc**, là một quân chủng cấu thành nên Lực lượng Vũ trang Hàn Quốc, phụ trách nhiệm vụ tác
**_Call of Duty_** là series trò chơi điện tử thuộc thể loại bắn súng góc nhìn thứ nhất được phát hành bởi Activision. Kể từ khi ra mắt phiên bản đầu tiên vào năm 2003,
**Britney Jean Spears** (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1981) là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, vũ công và diễn viên người Mỹ được mệnh danh là "công chúa nhạc pop". Cô chính là
**Walmart, Inc.** (), nhãn hiệu **Walmart**, là một công ty đại chúng Mỹ, hiện là một trong những công ty lớn nhất thế giới (theo doanh số) theo công bố của Fortune 500 năm 2019.
**Katheryn Elizabeth Hudson** (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1984), thường được biết đến với nghệ danh **Katy Perry**, là một nữ ca sĩ kiêm sáng tác nhạc và nhân vật truyền hình người Mỹ.
**Quỹ tương hỗ** (mutual fund) là một loại phương tiện đầu tư tập thể được quản lý chuyên nghiệp mà hồ tiền từ nhiều nhà đầu tư để mua các chứng khoán. Trong khi không
**Charlie Baker** (hay **Charles Duane Baker Jr.**, sinh ngày 13 tháng 11 năm 1956), người Mỹ gốc Anh, là một doanh nhân và chính trị gia Hoa Kỳ. Ông hiện là Thống đốc thứ 72
**Người Neanderthal** (phát âm tiếng Anh: , còn được viết là **Neandertal**, phiên âm tiếng Việt: **Nêanđectan**, với các danh pháp khoa học: **_Homo neanderthalensis_** hay **_Homo sapiens neanderthalensis_**) Nhiều học giả khác đề xuất
**_Mass Effect_** là một trò chơi điện tử nhập vai hành động phát triển bởi BioWare cho Xbox 360 sau đó được chuyển đến Microsoft Windows bởi Demiurge Studios. Phiên bản Xbox 360 đã được
nhỏ|Huy hiệu khu học chánh Houston **Khu học chánh Houston** (tiếng Anh: _Houston Independent School District_) là một hệ thống trường công lập lớn nhất tại tiểu bang Texas và lớn hạng thứ bảy tại
**Cherilyn Sarkisian** (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1946), thường được biết đến với nghệ danh **Cher** (), là một nữ ca sĩ, diễn viên và nhân vật truyền hình người Mỹ. Thường được giới
**Janet Damita Jo Jackson** (sinh ngày 16 tháng 5 năm 1966) là một nữ ca sĩ, người viết lời bài hát, vũ công và diễn viên người Mỹ. Được biết đến với một loạt các
thumb|, thiết giáp hạm dreadnought cũ nhất còn lại cho đến hôm nay, được hạ thủy vào năm 1912 và hiện là một tàu bảo tàng **Dreadnought** (tiếng Anh có khi còn được viết là
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, xung đột đảng phái bắt đầu xuất hiện. Điển hình là tranh cãi và bút chiến giữa Đảng Cộng sản, Việt Nam Quốc
**Scotland** (phát âm tiếng Anh: , ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, chiếm một phần ba diện tích phía bắc của đảo Anh, giáp với Anh
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**_Queer as Folk_** là một bộ phim truyền hình nối tiếp Mỹ-Canada chạy từ ngày 3 tháng 12 năm 2000 đến ngày 7 tháng 8 năm 2005. Bộ phim được sản xuất cho Showtime và
**Aleksey Anatolyevich Navalnyy** ( / _A-lếch-sê(i) A-na-tô-lia-vi(chơ) Na-vao-nưi_; 4 tháng 6 năm 1976 16 tháng 2 năm 2024) là một chính trị gia và nhà hoạt động chống tham nhũng người Nga. Ông nổi tiếng
[[Doraemon và các nhân vật Tokusatsu nổi tiếng của thập niên 70]] là danh từ tiếng Nhật, viết tắt của cụm từ nghĩa là hiệu ứng đặc biệt với các kỹ thuật chụp ảnh/quay phim
**HMS _Royal Oak_ (08)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Revenge_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được hạ thủy vào năm 1914 và hoàn tất vào năm 1916, _Royal Oak_ tham gia
Sự cố **Biểu tình Charlottesville 2017** khởi nguồn từ một cuộc tụ tập của các nhóm cực hữu ở thành phố Charlottesville, bang Virginia, được gọi là cuộc tập hợp "Unite the Right" (Hữu khuynh
**Andronikos I Komnenos** (; khoảng 1118 – 12 tháng 9, 1185), là Hoàng đế Đông La Mã từ năm 1183 đến năm 1185. Ông là con trai của Isaakios Komnenos và là cháu của hoàng
**Lớp thiết giáp hạm _Alsace**_ là một dự án chế tạo thiết giáp hạm của Hải quân Pháp nhằm tiếp nối và mở rộng lớp _Richelieu_; với thiết kế về căn bản dựa trên lớp