✨Vệ tinh khí tượng

Vệ tinh khí tượng

phải|Ảnh hiện tượng [[cực quang được chụp từ tàu con thoi]] Vệ tinh khí tượng là một loại vệ tinh nhân tạo được dùng chủ yếu để quan sát thời tiết và khí hậu trên Trái Đất. Các vệ tinh khí tượng không chỉ quan sát được mây và các hệ mây. Nó có thể quan sát được ánh sáng của thành phố, các vụ cháy, ô nhiễm, cực quang, cát và bão cát, vùng bị tuyết bao phủ, bản đồ băng, hải lưu, năng lượng lãng phí... và các thông tin môi trường khác được thu thập bởi vệ tinh khí tượng. Vệ tinh có thể quay quanh cực hoặc quanh đường xích đạo.

Ảnh từ vệ tinh khí tượng giúp giám sát các đám tro núi lửa từ núi St. Helens và các hoạt động núi lửa khác như núi Etna. Khói từ các vụ cháy rừng phía Tây Hoa Kỳ như Colorado và Utah cũng được giám sát.

Các vệ tinh theo dõi môi trường khác có thể phát hiện những thay đổi trong thảm thực vật, trạng thái mặt biển, màu nước biển và băng nguyên của Trái Đất. Ví dụ, vụ tràn dầu tàu Prestige năm 2002 ở ngoài khơi bờ biển phía tây bắc Tây Ban Nha đã được vệ tinh ENVISAT châu Âu theo dõi cẩn thận, mặc dù không phải là vệ tinh thời tiết, để có thể nhìn thấy những thay đổi trên mặt biển. Thêm vào đó, vệ tinh thời tiết quan sát được thời tiết toàn cầu.

El Niño và các hiệu ứng thời tiết của nó cũng được giám sát hằng ngày bằng hình ảnh từ vệ tinh thời tiết. Nói chung, các vệ tinh thời tiết phần lớn thuộc sở hữu của Hoa Kỳ, Châu Âu, Ấn Độ, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản cung cấp các quan sát gần như liên tục cho một chiếc đồng hồ thời tiết toàn cầu.

Lịch sử

trái|Ảnh chụp [[mây một vùng áp thấp phía trên Iceland ]]

Ngay từ năm 1946, ý tưởng về các camera quay theo quỹ đạo để quan sát thời tiết đã được phát triển. Điều này là do phạm vi quan sát dữ liệu yếu ớt và chi phí sử dụng tên lửa quan sát thời tiết quá tốn kém cho mỗi lần quan sát. Đến năm 1958, các nguyên mẫu ban đầu cho TIROS và Vanguard (được phát triển bởi Quân đoàn Tín hiệu Quân đội) đã được tạo ra. Vệ tinh khí tượng đầu tiên, Vanguard 2, được phóng vào ngày 17 tháng 2 năm 1959. Nó được thiết kế để đo sự che phủ của mây. Tuy nhiên, do trục quay không chính xác nên nó không thu thập được nhiều dữ liệu có ích. TIROS hoạt động trong 78 ngày và được chứng minh là thành công hơn nhiều so với Vanguard 2. TIROS mở đường cho nhiều vệ tinh khí tượng cao cấp hơn trong tương lai, trong đó có chương trình Nimbus. Bắt đầu với vệ tinh Nimbus 3 vào năm 1969, thông tin nhiệt độ qua cột tầng đối lưu từ phía đông Đại Tây Dương và hầu hết Thái Bình Dương, dẫn đến những cải thiện đáng kể cho dự báo thời tiết.

Các vệ tinh quay quanh cực ESSA và NOAA vận hành từ cuối những năm 1960 trở đi. Các vệ tinh địa tĩnh theo sau, bắt đầu với các vệ tinh loại ATS và SMS vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, sau đó tiếp tục với loại GOES từ những năm 1970 trở đi. Các vệ tinh quay quanh cực như QuikScat và TRMM bắt đầu chuyển thông tin gió gần bề mặt đại dương bắt đầu từ cuối những năm 1970, với hình ảnh vi sóng giống như màn hình radar, giúp cải thiện đáng kể các dự đoán về sức mạnh của bão nhiệt đới, cường độ và vị trí trong những năm 2000 và 2010.

Quan sát

Việc quan sát thường được thực hiện thông qua các 'kênh' khác nhau của phổ điện từ, đặc biệt là các phần nhìn thấy và hồng ngoại.

Một số kênh này bao gồm:

Nhìn thấy và cận hồng ngoại: 0,6-1,6 μm để ghi lại mây che trong ngày Hồng ngoại: 3,9-7,3 μm (hơi nước), 8,7-13,4 μm (hình ảnh nhiệt)

Phổ nhìn thấy được

Hình ảnh ánh sáng nhìn thấy được từ các vệ tinh thời tiết ban ngày rất dễ thấy ngay cả với mắt người bình thường; các đám mây, hệ thống mây và bão nhiệt đới, hồ, rừng, núi, băng tuyết, hỏa hoạn và ô nhiễm như khói, sương mù, bụi và khói mù là điều dễ thấy. Ngay cả gió cũng có thể được xác định bởi các mô hình đám mây, sự sắp xếp và chuyển động từ các bức ảnh liên tiếp.

Phổ hồng ngoại

Hình ảnh nhiệt hoặc hồng ngoại được ghi lại bởi các cảm biến gọi là bức xạ kế cho phép một nhà phân tích được đào tạo để xác định độ cao và loại mây, để tính toán nhiệt độ nước và mặt nước và xác định vị trí các đặc điểm bề mặt đại dương. Hình ảnh vệ tinh hồng ngoại có thể được sử dụng hiệu quả cho bão nhiệt đới với mắt bão có thể nhìn thấy được, sử dụng kỹ thuật Dvorak, trong đó chênh lệch giữa nhiệt độ của mắt ấm và vùng mây lạnh xung quanh có thể được sử dụng để xác định cường độ của nó (vùng mây lạnh hơn thường xác định đó là một cơn bão dữ dội hơn). Hình ảnh hồng ngoại mô tả các sắc thái đại dương hoặc xoáy lốc và dòng chảy như Gulf Stream có giá trị đối với ngành vận tải biển. Ngư dân và nông dân quan tâm đến việc biết nhiệt độ đất và nước để bảo vệ cây trồng của họ chống lại băng giá hoặc tăng sản lượng đánh bắt từ biển. Ngay cả hiện tượng El Nino có thể được phát hiện. Sử dụng các kỹ thuật số hóa màu, hình ảnh nhiệt phổ màu xám có thể được chuyển đổi thành màu sắc khác để dễ dàng xác định thông tin muốn thu thập.

Các loại vệ tinh khí tượng

Vệ tinh khí tượng thường có hai loại quỹ đạo cơ bản: quỹ đạo địa tĩnh (vệ tinh địa tĩnh) và quỹ đạo cực.

Vệ tinh khí tượng địa tĩnh

Vệ tinh khí tượng địa tĩnh bay vòng quanh Trái Đất phía trên xích đạo ở độ cao khoảng 35.880 km (22.300 dặm). Ở quỹ đạo này, các vệ tinh có chiều quay cùng chiều với Trái Đất, do đó nó có vị trí cố định so với mặt đất. Do đó, nó có thể truyền các hình ảnh của bán cầu phía dưới liên tục bằng các máy ảnh và bộ cảm biến hồng ngoại của nó. Các hãng thông tấn đưa tin tức về thời tiết dùng các ảnh từ vệ tinh này trong các chương trình dự báo thời tiết như là các ảnh chụp, hoặc ghép lại thành ảnh động để thể hiện sự thay đổi thời tiết. Chúng cũng có sẵn trên các trang dự báo của www.noaa.gov.

Hiện nay, có nhiều vệ tinh khí tượng địa tĩnh đang được sử dụng. Hoa Kỳ có sáu vệ tinh đang hoạt động thuộc dòng GOES (vệ tinh). GOES-15, GOES-16 và GOES-17. GOES-16 và GOES-17 theo thứ tự vẫn hoạt động trên Đại Tây Dương và Thái Bình Dương. GOES-15 sẽ kết thúc sứ mệnh vào đầu tháng 7 năm 2019. Trước đó Mỹ cũng đã có ba vệ tinh thời tiết và đã hoàn thành sứ mệnh bao gồm GOES-12 được mệnh danh là GOES-East, nằm phía trên sông Amazon và cung cấp hầu hết thông tin thời tiết của Hoa Kỳ. GOES-10 còn được gọi là GOES-West nằm ở trên phía Đông Thái Bình Dương. GOES-9 cho Nhật mượn thông qua một thỏa thuận quốc tế do vệ tinh GMS-5 của Nhật đã hư hỏng và việc phóng vệ tinh thay thế (vệ tinh MTSAT-1) thất bại; nó bay trên vùng giữa Thái Bình Dương.

Vệ tinh thời tiết thế hệ mới của Nga Elektro-L No.1 hoạt động ở tọa độ 76°Đ trên Ấn Độ Dương. Nhật Bản có MTSAT-2 nằm ở giữa Thái Bình Dương ở tọa độ 145°Đ và Himawari 8 ở 140°Đ. Châu Âu có các vệ tinh Meteosat-8 (3,5°T) và Meteosat-9 (0°) bay trên Đại Tây Dương và Meteosat-5. Meteosat-6 (63°Đ) và Meteosat-7 (57,5°Đ) bay trên Ấn Độ Dương. Nga có vệ tinh GOMS bay trên xích đạo phía Nam Moskva. Ấn Độ cũng có vệ tinh địa tĩnh gọi là INSAT chứa các thiết bị thời tiết. Trung Quốc có vệ tinh Phong Vân (Tiếng Anh: Feng-Yun, Tiếng Trung Quốc: 風雲) là vệ tinh địa tĩnh. Vệ tinh được phóng gần đây nhất là FY-2E,,FY-2F và FY-2G hoạt động lần lượt tại kinh độ 86,5°Đ, 123,5°Đ và 105°Đ.

Vệ tinh quỹ đạo cực bay vòng quanh Trái Đất ở độ cao từ 850 km (530 dặm) từ hướng bắc đến nam hoặc ngược lại và đi ngang qua các địa cực trên đường đi. Vệ tinh quỹ đạo cực có quỹ đạo đồng bộ mặt trời , có nghĩa là nó có thể quan sát bất kỳ vị trí nào trên Trái Đất và mỗi ngày 2 lần với cùng điều kiện ánh sáng vì giờ địa phương chỗ nó đi qua gần như không thay đổi. Các vệ tinh thời tiết quay quanh cực cung cấp độ phân giải tốt hơn nhiều so với các vệ tinh địa tĩnh do gần Trái Đất hơn.

Hoa Kỳ có những vệ tinh NOAA là vệ tinh khí tượng quỹ đạo cực, hiện tại NOAA-15 và NOAA-18, NOAA-19 (POES) và NOAA-20 (JPSS). Châu Âu có vệ tinh MetOp-A và MetOp-B vận hành bởi EUMETSAT. Nga có những vệ tinh Meteor và RESURS. Trung Quốc có FY-3A, 3B và 3C. Ấn Độ cũng có những vệ tinh quỹ đạo cực.

Ảnh chụp ánh sáng bình thường của vệ tinh khí tượng chụp ban ngày người bình thường vẫn có thể hiểu được; mây, hệ mây như bão nhiệt đới, hồ, rừng, núi, tuyết, cháy, ô nhiễm, khói, sương mù... đều hiện ra. Ngay cả gió vẫn có thể xác định được dựa trên hình dạng mây, cách sắp xếp và sự di chuyển từ những bức ảnh trước đó.

Ảnh hồng ngoại và ảnh chụp nhiệt độ được chụp bằng các sensor cho phép các nhà phân tích xác định độ cao và loại mây, tính nhiệt độ mặt đất và mặt nước, đặt điểm mặt biển. Các ảnh hồng ngoại mô tả những xoáy nước trên biển và bản đồ các dòng hải lưu có giá trị kinh tế và công nghiệp hàng hải. Ngư dân và nông dân cũng cần biết nhiệt độ mặt đất và mặt nước để bảo vệ mùa màng trước sự băng giá hoặc tăng sản lượng đánh bắt trên biển. Hiện tượng El Niño cũng có thể được xác định. Dùng kỹ thuật tô màu ảnh kỹ thuật số, các sắc độ xám của ảnh được chuyển thành các màu để xác định các thông tin mong muốn một cách dễ dàng.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|Ảnh hiện tượng [[cực quang được chụp từ tàu con thoi]] **Vệ tinh khí tượng** là một loại vệ tinh nhân tạo được dùng chủ yếu để quan sát thời tiết và khí hậu trên
nhỏ|300x300px|Sáu vệ tinh quan sát Trái Đất, trong đó có tập vệ tinh [[A-train (tập vệ tinh)|A-train vào năm 2014]] **Vệ tinh quan sát Trái Đất** hoặc **vệ tinh viễn thám Trái Đất** là loại
thumb|**GMS**, thế hệ đầu tiên của Himawari Các vệ tinh địa tĩnh , được điều hành bởi Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA), hỗ trợ ddự báo thời tiết, bão nhiệt đới theo dõi
thumb|right|Cục Khí tượng Hàn Quốc - Đài quan sát Radar Gwanak **Cục Khí tượng Hàn Quốc** () (KMA) là cơ quan khí tượng quốc gia Hàn Quốc. Dịch vụ này bắt đầu vào năm 1904
**Charon** là vệ tinh tự nhiên lớn nhất của hành tinh lùn Sao Diêm Vương (Pluto), được phát hiện vào năm 1978. Sau khi phát hiện được thêm 2 vệ tinh khác của Sao Diêm
**Vệ tinh băng** là một loại vệ tinh tự nhiên với bề mặt được cấu tạo chủ yếu từ băng. Vệ tinh băng có thể có một đại dương bên dưới bề mặt, và phần
**Ganymede** (phiên âm /ˈgænɨmiːd/ GAN-ə-meed) là vệ tinh tự nhiên lớn nhất của Sao Mộc và cũng là vệ tinh lớn nhất trong hệ Mặt Trời. Thậm chí nó còn lớn hơn cả Sao Thủy,
**Titan** (phát âm tiếng Anh: ˈtaɪtən _TYE-tən,_ tiếng Hy Lạp: _Τῑτάν_) hoặc **Saturn VI** là vệ tinh lớn nhất của Sao Thổ, vệ tinh duy nhất có bầu khí quyển đặc và là vật thể
**Enceladus** (phiên âm ) là vệ tinh lớn thứ sáu của Sao Thổ. Nó được nhà thiên văn học William Herschel phát hiện vào năm 1789. Trước năm 1980 (thời điểm 2 tàu vũ trụ
**Europa** hay **Jupiter II** là vệ tinh thứ sáu, tính theo quỹ đạo từ trong ra ngoài, của Sao Mộc. Europa được Galileo Galilei và Simon Marius phát hiện năm 1610. Hai nhà khoa học
**Iapetus** (phát âm ) đôi khi được viết là **Japetus** (phiên âm là /ˈdʒæpɨtəs/). Iapetus được nhà thiên văn học Giovanni Domenico Cassini phát hiện vào năm 1671. Đây là một vệ tinh hết sức
**Io** (IPA: ˈaɪoʊ; tiếng Hy Lạp: Ῑώ) là vệ tinh tự nhiên nằm phía trong cùng trong số bốn vệ tinh Galileo của Sao Mộc và với đường kính 3.642 kilômét, là vệ tinh lớn
thumb|[[Ảnh dựng của bốn **vệ tinh Galileo** của Sao Mộc, trong một hình ảnh tổng hợp mô tả một phần của Sao Mộc và kích thước tương đối của chúng (các vị trí chỉ mang
[[ERS 2, một vệ tinh quan sát Trái Đất của Cơ quan Vũ trụ châu Âu]] Một **vệ tinh nhân tạo** hay gọi ngắn gọn là **vệ tinh**, là bất kỳ 1 vật thể nào
**Phobos** (tiếng Anh: , : "sợ hãi") là vệ tinh lớn và sát bề mặt Sao Hỏa nhất trong số hai vệ tinh của nó (vệ tinh kia là Deimos), được đặt theo tên của
phải|[[Sao Hải Vương (trên cùng) và Triton (ở giữa), 3 ngày sau khi _Voyager 2_ bay qua]] Tính đến tháng 2 năm 2024, Sao Hải Vương có 16 vệ tinh, được đặt tên theo các
Vệ tinh thông tin quân sự [[MILSTAR của Hoa Kỳ.]] **Vệ tinh thông tin** (tiếng Anh: communications satellite, đôi khi viết tắt là **SATCOM**), hay còn được gọi là **vệ tinh truyền thông**, là vệ
World Meteorological Organization ( viết tắt tên tiếng Anh WMO) là _tổ chức chuyên môn về khí tượng_ của Liên Hợp Quốc. WMO có tiền thân là _Tổ chức Khí tượng Quốc tế_ thành lập
**_Hành tinh khỉ: Vương quốc mới_** (tên tiếng Anh: **_Kingdom of the Planet of the Apes_**) là bộ phim điện ảnh thuộc thể loại hành động khoa học viễn tưởng của Hoa Kỳ ra mắt
**Cục Khí tượng Thủy văn** là cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý nhà nước
nhỏ|Quỹ đạo địa tĩnh. Trong hình, chấm tròn nhỏ màu xanh chuyển động trên đường tròn quỹ đạo quanh Trái Đất là một vệ tinh địa tĩnh, chấm tròn màu nâu trên bề mặt Trái
**Callisto** (, hay **Jupiter IV**) là vệ tinh lớn thứ hai của Sao Mộc. Trong hệ Mặt Trời, Callisto là vệ tinh lớn thứ ba, sau Ganymede cũng của Sao Mộc và vệ tinh Titan
**Umbriel** (phát âm là / ʌmbriəl /) là vệ tinh lớn thứ ba của Sao Thiên Vương và được William Lassell phát hiện vào ngày 24 tháng 10 năm 1851. Nó được phát hiện cùng
Sao Hỏa có hai tiểu **vệ tinh**, Phobos và Deimos, được cho là các tiểu hành tinh bị bắt giữ. Cả hai được Asaph Hall phát hiện năm 1877, được đặt tên theo các nhân
**Nix** là một vệ tinh tự nhiên của Sao Diêm Vương, với chiều dài tối đa là khoảng 49,8 km. Nó được khám phá cùng lúc với vệ tinh ngoài cùng Hydra của Sao Diêm Vương
**Oberon** , còn gọi là **** là vệ tinh lớn và nằm phía ngoài cùng trong nhóm vệ tinh chính của Sao Thiên Vương. Đây là vệ tinh lớn và nặng thứ hai của Sao
upright=1.5|phải|nhỏ|Sao Thiên Vương và sáu vệ tinh lớn nhất của nó (_kích thước theo tỷ lệ, thứ tự khoảng cách đến hành tinh không theo tỷ lệ_). Từ trái sang phải: Puck, Miranda, Ariel, Umbriel,
**Adrastea** (phiên âm tiếng Anh: ; tiếng Hy Lạp: Αδράστεια), còn được biết đến với tên gọi **Jupiter XV** (_Jupiter_ có nghĩa Sao Mộc trong tiếng Anh), là vệ tinh thứ hai theo thứ tự
**Khí tượng quy mô lớn** () là khí tượng quy mô chiều ngang khoảng 1000 km (khoảng 620 dặm) trở lên. Điều này tương ứng với quy mô bề ngang điển hình của các khu vực
**Skathi** còn có tên là **Saturn XXVII,** ban đầu có tên gọi là **Skadi**, là một vệ tinh tự nhiên của Sao Thổ. Skathi là một trong những vệ tinh dị hình của Sao Thổ,
phải|nhỏ|Điện thoại vệ tinh [[Inmarsat.]] **Điện thoại vệ tinh** là một loại điện thoại di động kết nối đến các vệ tinh trên quỹ đạo thay vì các trạm mặt đất. Tùy thuộc vào cấu
**Kerberos** (còn gọi là **S/2011 (134340) 1** hay **P4**) là một vệ tinh nhỏ của Sao Diêm Vương. Sự tồn tại của vệ tinh này được xác nhận vào ngày 20 tháng 7 năm 2011,
**Tổ chức Khí tượng Quốc tế** (tiếng Anh: _International Meteorological Organization_) (1873–1953) là tổ chức đầu tiên được thành lập với mục đích trao đổi thông tin thời tiết giữa các quốc gia trên thế
**Quốc gia vệ tinh** () là một quốc gia độc lập chính thức trên thế giới, nhưng chịu nhiều ảnh hưởng về chính trị, kinh tế và quân sự từ một quốc gia khác. Thuật
**Thebe** ( **_THEE_'-bee_; ) còn được biết với cái tên _**', là vệ tinh thứ tư trong số các vệ tinh tự nhiên của Sao Mộc tính từ khoảng cách với hành
**Himalia** ( _hy-**MAY**-lee-ə_ hoặc _hi-**MAH**-lee-ə_; ) là vệ tinh dị hình lớn nhất của Sao Mộc. Xét toàn bộ thì nó là vệ tinh Jovian lớn thứ sáu về
**Triton** là vệ tinh tự nhiên lớn nhất của Sao Hải Vương và là vệ tinh đầu tiên của Sao Hải Vương được phát hiện. Nó được khám phá vào ngày 10 tháng 10 năm
**Epimetheus** là một vệ tinh bên trong của Sao Thổ. Nó cũng được biết tới là **Saturn XI**. Nó được đặt tên theo vị thần Epimetheus trong thần thoại, anh em của Prometheus. ## Phát
**Titania** là vệ tinh lớn nhất về thể tích và khối lượng của Sao Thiên Vương, vệ tinh lớn thứ 8 trong Hệ Mặt Trời. Tính theo khoảng cách từ bề mặt Sao Thiên Vương
**Deimos** (English hay ; tiếng Hy Lạp _Δείμος_: "Kinh hoàng"), là vệ tinh nhỏ hơn và ở xa hơn phía ngoài trong số hai vệ tinh của Sao Hoả, được đặt theo tên Deimos (con
nhỏ|Sơ đồ quỹ đạo cơ bản của một hệ hành tinh-bán vệ tinh. **Bán vệ tinh** hay **nửa vệ tinh** là một vật thể trong một loại cấu hình quỹ đạo đồng nhất định (cộng
nhỏ|299x299px| Một số vệ tinh tự nhiên (với quy mô [[Trái Đất). 19 vệ tinh đủ lớn để có hình cầu và chỉ Titan mới có bầu khí quyển riêng. ]] Các vệ tinh tự
**Hyperion** ( _hy-**PEER**-ee-ən_; tiếng Hy Lạp: _Ὑπερίων_), còn được biết đến là **Saturn VII** (7), là một vệ tinh tự nhiên của Sao Thổ được khám phá bởi William Cranch Bond, George
**Leda** (), còn được biết tới với cái tên là ****, là một vệ tinh dị hình chuyển động cùng hướng với Sao Mộc. Nó được phát hiện bởi Charles T. Kowal tại Đài thiên
thumb|Bản sao của vệ tinh Iridium thumb|Đồ họa kỹ thuật số của vệ tinh Strela-2M Vào ngày 10 tháng 2 năm 2009, vệ tinh liên lạc đang hoạt động Iridium 33 của Mỹ và vệ
nhỏ| Bức tranh thể hiện sự tưởng tượng của các họa sĩ về ngoại mặt trăng [[Kepler-1625b I đang quay quanh hành tinh của nó.]] **Vệ tinh tự nhiên ngoài Hệ Mặt Trời** hay **ngoại
**Tethys** (phiên âm /ˈtiːθɨs/, /ˈtɛθɨs/) là một trong 4 vệ tinh được nhà thiên văn học Giovanni Domenico Cassini phát hiện vào năm 1684. Tethys là một trong 7 vệ tinh lớn của Sao Thổ
Hành tinh nhỏ 47171 Lempo có hai vệ tinh là Paha và Hiisi, chúng tạo thành một hệ thống ba. Tất cả những vật thể này được đặt tên theo những nhân vật trong thần
thumb|Hình Metis từ tàu _Galileo_ **Metis** (phiên âm tiếng Anh: ; tiếng Hy Lạp: Μήτις), còn biết đến với tên gọi: **Jupiter XVI** (Jupiter có nghĩa là Sao Mộc trong tiếng Anh), là một trong
**Sinope** ( ; ) là một vệ tinh dị hình của Sao Mộc được Seth Barnes Nicholson phát hiện tại Đài thiên văn Lick vào năm 1914, và được đặt theo tên của vị thần