upright=1.5|phải|nhỏ|Sao Thiên Vương và sáu vệ tinh lớn nhất của nó (kích thước theo tỷ lệ, thứ tự khoảng cách đến hành tinh không theo tỷ lệ). Từ trái sang phải: Puck, Miranda, Ariel, Umbriel, Titania và Oberon.
Sao Thiên Vương có 28 vệ tinh tự nhiên. Trong đó có 27 vệ tinh được đặt tên theo các nhân vật từ các tác phẩm của William Shakespeare và Alexander Pope. William Herschel đã khám phá hai vệ tinh đầu tiên, Titania và Oberon, vào năm 1787, và các vệ tinh hình cầu (Ariel và Umbriel) đã được William Lassell phát hiện năm 1851, Miranda được Gerard Kuiper phát hiện năm 1948. Các vệ tinh còn lại được phát hiện sau năm 1985, hoặc là trong sứ mệnh bay ngang qua của Voyager 2 hoặc bởi sự hỗ trợ của kính thiên văn đặt trên Trái Đất. Trong những năm 1840, các công cụ tốt hơn và vị trí thuận lợi hơn của Sao Thiên Vương trên bầu trời đã dẫn đến các chỉ dẫn rời rạc về các vệ tinh khác ngoài Titania và Oberon. Cuối cùng, hai vệ tinh tiếp theo, Ariel và Umbriel, đã được phát hiện bởi William Lassell vào năm 1851. Với sự xác nhận về Ariel và Umbriel, Lassell đánh số các vệ tinh từ I đến IV từ Sao Thiên Vương trở ra, và đây là cách đánh số được xem là chuẩn. Nhiều thập kỉ sau, chuyến bay ngang qua của tàu thăm dò không gian Voyager 2 vào tháng 1 năm 1986 dẫn đến sự khám phá thêm 10 vệ tinh vòng trong.
Các tên gọi tiếp theo, thay vì tiếp tục chủ đề tinh linh không trung (chỉ có Puck và Mab tiếp tục xu hướng đó), lại tập trung dựa vào các tác phẩm mà Herschel đã dùng. Năm 1949, vệ tinh thứ năm, Miranda, được đặt tên bởi chính người khám phá ra nó, Gerard Kuiper, dựa theo một nhân vật không phải là tiên hay tinh trong vở kịch của Shakespeare: Cơn bão. Hiện tại IAU thực hiện đặt tên cho các vệ tinh theo các nhân vật của các vở kịch của Shakespeare và từ The Rape of the Lock (dù cho đến nay chỉ có Ariel, Umbriel, và Belinda có tên được rút ra từ tác phẩm thứ hai; tất cả phần còn lại đều lấy từ Shakespeare). Đầu tiên, tất cả các vệ tinh vòng ngoài được đặt tên theo các nhân vật trong vở kịch Cơn bão; nhưng xu hướng đó đã kết thúc với Margaret được đặt tên theo vở hài kịch Chẳng có chuyện gì cũng làm rối lên (Much ado about nothing).
nhỏ|Khối lượng tương đối của các vệ tinh Sao Thiên Vương. Năm vệ tinh hình cầu từ Miranda chiếm 0.7% tới Titania chiếm gần 40% tổng khối lượng. Các vệ tinh khác tổng cộng chiếm khoảng 0,1%, và hầu như không thể thấy trong sơ đồ này.
- The Rape of the Lock (một bài thơ của Alexander Pope):
** Ariel, Umbriel, Belinda
- Kịch của William Shakespeare:
Giấc mộng đêm hè: Titania, Oberon, Puck
Cơn bão: (Ariel), Miranda, Caliban, Sycorax, Prospero, Setebos, Stephano, Trinculo, Francisco, Ferdinand
Vua Lear: Cordelia
Hamlet: Ophelia
Chinh phục người đàn bà đanh đá: Bianca
Troilus và Cressida: Cressida
Othello: Desdemona
Romeo và Juliet: Juliet, Mab
Chàng Lái Buôn Thành Venise: Portia
Xin tùy ý thích: Rosalind
Much Ado About Nothing (Chẳng có chuyện gì cũng làm rối lên): Margaret
Chuyện kể của mùa đông: Perdita
** Timon của Athens: Cupid
Một số tiểu hành tinh chia sẻ chung tên với các vệ tinh Sao Thiên Vương: 171 Ophelia, 218 Bianca, 593 Titania, 666 Desdemona, 763 Cupido và 2758 Cordelia.
Đặc điểm và các nhóm
Hệ thống vệ tinh Sao Thiên Vương có khối lượng nhỏ nhất trong số các hành tinh khí khổng lồ; thực vậy, tổng khối lượng của năm vệ tinh chính ít hơn một nửa khối lượng của một mình Triton (vệ tinh lớn thứ bảy trong Hệ Mặt Trời). Vệ tinh lớn nhất trong hệ, Titania, có bán kính khoảng 788,9 km,
upright=2|trái|nhỏ|Năm vệ tinh lớn nhất của Sao Thiên Vương được so sánh bằng kích thước tương đối và độ sáng. Từ trái sang phải (theo thứ tự từ Sao Thiên Vương trở ra): Miranda, Ariel, Umbriel, Titania và Oberon.
Tất cả các vệ tinh chính bao gồm đồng đều đá và băng, trừ Miranda, được cấu tạo phần lớn từ băng. Các vệ tinh lớn nhất của nhất của Sao Thiên Vương có cấu tạo bên trong rất khác nhau, với các nhân đá tại tâm của chúng được bao bọc bởi các lớp phủ băng. Titania và Oberon có thể chứa các đại dương chất lỏng tại ranh giới nhân và lớp phủ. Các vệ tinh chính của Sao Thiên Vương không có bầu khí quyển. Ví dụ, Titania nếu tồn tại bầu khí quyển thì áp suất bầu khí quyển của nó chỉ không lớn hơn 10–20 nanobar.
nhỏ|Tác phẩm của họa sĩ về đường di chuyển của Mặt Trời vào mùa hè trên một vệ tinh lớn của Sao Thiên Vương
Khi quan sát sự di chuyển của Mặt Trời trên bầu trời và trong những ngày cục bộ ở Sao Thiên Vương và các vệ tinh chính của nó trong quá trình chúng ở chí điểm (so với Sao Thiên Vương và so với Mặt Trời) là rất khác so với khi nhìn ở những nơi khác trong Hệ Mặt Trời. Các vệ tinh chính có trục quay song song với trục quay của Sao Thiên Vương. Mặt Trời hiện trên một đường tròn xung quanh thiên cực của Sao Thiên Vương trên bầu trời, với điểm gần nhất cách cực 7 độ. Gần đường xích đạo, có thể nhìn Mặt Trời gần ở phía nam hoặc phía bắc (phụ thuộc vào mùa). Tại những vĩ độ lớn hơn 7°, Mặt Trời sẽ đi theo một đường tròn với đường kính 15 độ trên bầu trời, và không bao giờ lặn.
Vệ tinh dị hình
nhỏ|upright=1.5|Các vệ tinh dị hình của Sao Thiên Vương. Trục X được thể hiện ở [[Gigametre|Gm (triệu km) và theo tỷ lệ của bán kính quyển Hill. Độ lệch tâm được thể hiện bởi các phân đoạn màu vàng được biểu diễn nghiêng trên trục Y.]]
Cho đến 2005, Sao Thiên Vương được biết có 9 vệ tinh dị hình, với quỹ đạo xa hơn nhiều so với Oberon, vệ tinh lớn xa nhất. Tất cả các vệ tinh dị hình dường như là những thiên thể bị bắt giữ bởi Sao Thiên Vương sau khi hành tinh này hình thành. Sơ đồ minh hoạ chuyển động của các vệ tinh dị hình được phát hiện tính đến ngày nay. Bán kính quyển Hill xấp xỉ 73 triệu km.
Phạm vi kích thước của các vệ tinh dị hình là từ khoảng 150 km (Sycorax) tới 18 km (Trinculo). Không như các vệ tinh dị hình của Sao Mộc, Sao Thiên Vương không thể hiện trục tương quan so với độ nghiêng. Thay vào đó, các vệ tinh nghịch hành có thể chia thành hai nhóm dựa trên trục/độ lệch tâm quỹ đạo. Nhóm phía trong bao gồm các vệ tinh ở gần Sao Thiên Vương hơn (a < 0,15 rH) và có độ lệch tâm vừa phải (~0,2), cụ thể là Francisco, Caliban, Stephano và Trinculo. Nhóm phía ngoài (a > 0,15 rH) bao gồm các vệ tinh có độ lệch lớn (~0,5): Sycorax, Prospero, Setebos và Ferdinand.
Các mặt phẳng quỹ đạo với độ nghiêng 60° < i < 140° không tồn tại một vệ tinh nào do sự bất ổn định Kozai. Trong vùng bất ổn định này, các nhiễu loạn trong Hệ Mặt Trời tại những khoảng cách xa nhất làm cho các vệ tinh có độ lệch tâm lớn dẫn đến sự va chạm của chúng với các vệ tinh bên trong hay bị đẩy ra khỏi Sao Thiên Vương. Thời gian sống của các vệ tinh trong vùng bất ổn định khoảng từ 10 triệu đến một tỷ năm tuổi
Vệ tinh Margaret là vệ tinh dị hình duy nhất được biết đến có chuyển động quay cùng hướng với Sao Thiên Vương, và hiện nay nó có độ lệch tâm quỹ đạo lớn nhất trong số các vệ tinh trong Hệ Mặt Trời, mặc dù vệ tinh Nereid của Sao Hải Vương có độ lệch tâm trung bình cao hơn. Đến năm 2008, độ lệch tâm của Margaret là 0,7979.
Bảng thống kê
Các vệ tinh của Sao Thiên Vương được liệt kê ở đây theo chu kỳ quỹ đạo, từ ngắn nhất đến dài nhất. Khối lượng các vệ tinh vừa đủ để bề mặt của chúng có thể bị suỵ sụp hình tựa cầu được dấu màu xanh nhạt và bôi đen. Các vệ tinh dị hình có quỹ đạo thuận hướng được thể hiện bằng màu xám sáng, còn có quỹ đạo nghịch hướng thể hiện ở màu xám đen.
Nguồn: NASA/NSSDC, Sheppard, và đồng sự. 2005.
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
upright=1.5|phải|nhỏ|Sao Thiên Vương và sáu vệ tinh lớn nhất của nó (_kích thước theo tỷ lệ, thứ tự khoảng cách đến hành tinh không theo tỷ lệ_). Từ trái sang phải: Puck, Miranda, Ariel, Umbriel,
phải|[[Sao Hải Vương (trên cùng) và Triton (ở giữa), 3 ngày sau khi _Voyager 2_ bay qua]] Tính đến tháng 2 năm 2024, Sao Hải Vương có 16 vệ tinh, được đặt tên theo các
thumb|upright=1.6|Vệ tinh của các [[hành tinh trong hệ Mặt Trời so với Trái Đất]] **Vệ tinh tự nhiên** là vật quay quanh hành tinh hoặc hành tinh lùn mà không phải do con người chế
nhỏ| Bức tranh thể hiện sự tưởng tượng của các họa sĩ về ngoại mặt trăng [[Kepler-1625b I đang quay quanh hành tinh của nó.]] **Vệ tinh tự nhiên ngoài Hệ Mặt Trời** hay **ngoại
phải|nhỏ|Sơ đồ hệ thống [[Vệ tinh tự nhiên của Sao Thiên Vương|vệ tinh – vành đai của Sao Thiên Vương. Các đường dày thể hiện vành đai; các đường đứt khúc thể hiện quỹ đạo
alt=Refer to caption|thumb|_Life on Uranus_ vẽ bởi [[Frank R. Paul, bìa sau của quyển _Fantastic Adventures_, tháng 4 năm 1940.]] Không lâu sau khi được phát hiện vào năm 1781, Sao Thiên Vương đã bắt
nhỏ|299x299px| Một số vệ tinh tự nhiên (với quy mô [[Trái Đất). 19 vệ tinh đủ lớn để có hình cầu và chỉ Titan mới có bầu khí quyển riêng. ]] Các vệ tinh tự
**Cupid** là một vệ tinh tự nhiên vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện bởi Mark R. Showalter và Jack J. Lissauer vào năm 2003 bằng kính viễn vọng Không gian Hubble.
**Cressida** ( KRES -i-ðə, ) là một vệ tinh tự nhiên của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện từ những hình ảnh được chụp bởi tàu _Voyager 2_ vào ngày 9 tháng 1 năm
**Ophelia** là một vệ tinh tự nhiên của Sao Thiên Vương được tàu thăm dò _Voyager 2_ phát hiện vào ngày 20 tháng 1 năm 1986 và có tên tạm thời là **S/1986 U 8**.
**Hydra** là một vệ tinh tự nhiên của Sao Diêm Vương với đường kính theo chiều dài nhất là khoảng . Với kích thước lớn hơn Nix một chút, Hydra là vệ tinh lớn thứ
Hành tinh nhỏ 47171 Lempo có hai vệ tinh là Paha và Hiisi, chúng tạo thành một hệ thống ba. Tất cả những vật thể này được đặt tên theo những nhân vật trong thần
**Umbriel** (phát âm là / ʌmbriəl /) là vệ tinh lớn thứ ba của Sao Thiên Vương và được William Lassell phát hiện vào ngày 24 tháng 10 năm 1851. Nó được phát hiện cùng
**Nix** là một vệ tinh tự nhiên của Sao Diêm Vương, với chiều dài tối đa là khoảng 49,8 km. Nó được khám phá cùng lúc với vệ tinh ngoài cùng Hydra của Sao Diêm Vương
**Miranda**, hay **Uranus V**, là vệ tinh nhỏ nhất và nằm trong cùng trong số năm vệ tinh tự nhiên chính của Sao Thiên Vương. Giống như 27 vệ tinh tự nhiên còn lại, Miranda
_Đối với các định nghĩa khác, xem_ Styx (định hướng) **Styx** (tên gọi khác **S/2012 (134340) 1** hay **P5**) là một vệ tinh tự nhiên cỡ nhỏ của Sao Diêm Vương. Nó được tuyên bố
**Margaret** ( ) là vệ tinh dị hình chuyển động thuận hành duy nhất của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện bởi Scott S. Sheppard và đồng sự vào năm 2003 và được đặt
**Mab**, hay **Uranus XXVI**, là một vệ tinh vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện bởi Mark R. Showalter và Jack J. Lissauer vào năm 2003 bằng Kính viễn vọng không gian
**Sao Thiên Vương** (tiếng Anh: **Uranus**) hay **Thiên Vương Tinh** (chữ Hán: 天王星) là hành tinh thứ bảy tính từ Mặt Trời, là hành tinh có bán kính lớn thứ ba và có khối lượng
**Proteus** ( **_PROH**-tee-əs_; tiếng Hy Lạp: _Πρωτεύς_), cũng được biết đến là **Neptune VIII**, là vệ tinh tự nhiên lớn thứ hai của Sao Hải Vương, và là vệ tinh bên trong
**Nereid** là vệ tinh tự nhiên lớn thứ ba của Sao Hải Vương. Nó có một quỹ đạo có độ lệch tâm cao. Nó là vệ tinh thứ hai của Sao Hải Vương được phát
**Hippocamp**, tên cũ là **S/2004 N 1** là một vệ tinh nhỏ của sao Hải Vương được phát hiện vào năm 2013. Vì rất nhỏ nên nó không được tàu vũ trụ _Voyager 2_ quan
nhỏ|300x300px|Bán cầu nam của Sao Thiên Vương ở màu tự nhiên gần đúng của nó (bên trái) và ở bước sóng dài hơn (bên phải), cho thấy những dải mây nhạt của nó **Khí hậu
thế=the planet Uranus is seen through the Hubble telescope, its atmosphere defined by bands of electric blue and green. Ariel appears as a white dot floating above it, casting a dark shadow below|phải|nhỏ| Hình ảnh
nhỏ|[[Mặt Trời, trung tâm của Hệ Mặt Trời (Lưu ý: Mặt Trời là một ngôi sao, không phải hành tinh).]] **Thời gian biểu phát hiện các hành tinh và vệ tinh trong Hệ Mặt
**Oberon** , còn gọi là **** là vệ tinh lớn và nằm phía ngoài cùng trong nhóm vệ tinh chính của Sao Thiên Vương. Đây là vệ tinh lớn và nặng thứ hai của Sao
**Enceladus** (phiên âm ) là vệ tinh lớn thứ sáu của Sao Thổ. Nó được nhà thiên văn học William Herschel phát hiện vào năm 1789. Trước năm 1980 (thời điểm 2 tàu vũ trụ
**Triton** là vệ tinh tự nhiên lớn nhất của Sao Hải Vương và là vệ tinh đầu tiên của Sao Hải Vương được phát hiện. Nó được khám phá vào ngày 10 tháng 10 năm
nhỏ|Sơ đồ các thiên thể Troia của [[Sao Hải Vương và các plutino.]] Các **thiên thể Troia của Sao Hải Vương** là các thiên thể Troia có quỹ đạo xung quanh Mặt Trời nằm ở
**Io** (IPA: ˈaɪoʊ; tiếng Hy Lạp: Ῑώ) là vệ tinh tự nhiên nằm phía trong cùng trong số bốn vệ tinh Galileo của Sao Mộc và với đường kính 3.642 kilômét, là vệ tinh lớn
**Titania** là vệ tinh lớn nhất về thể tích và khối lượng của Sao Thiên Vương, vệ tinh lớn thứ 8 trong Hệ Mặt Trời. Tính theo khoảng cách từ bề mặt Sao Thiên Vương
**Bianca** là một vệ tinh tự nhiên vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện từ những hình ảnh được chụp bởi _Voyager 2_ vào ngày 23 tháng 1 năm 1986, và được
**Perdita** ( PUR -dit-ə) là một vệ tinh tự nhiên vòng trong của Sao Thiên Vương. Khám phá Perdita rất phức tạp. Những bức ảnh đầu tiên của Perdita được tàu vũ trụ _Voyager 2_
**Desdemona** là một vệ tinh tự nhiên vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện từ những hình ảnh được chụp bởi tàu vũ trụ _Voyager 2_ vào ngày 13 tháng 1 năm
**Dysnomia** (phiên âm /dɪsˈnoʊmiə/) tên quốc tế **(136199) Eris I Dysnomia**, là vệ tinh duy nhất được phát hiện đến nay của Eris. Nó được phát hiện năm 2005 do Mike Brown sử dụng hệ
**Vệ tinh băng** là một loại vệ tinh tự nhiên với bề mặt được cấu tạo chủ yếu từ băng. Vệ tinh băng có thể có một đại dương bên dưới bề mặt, và phần
**Hyperion** ( _hy-**PEER**-ee-ən_; tiếng Hy Lạp: _Ὑπερίων_), còn được biết đến là **Saturn VII** (7), là một vệ tinh tự nhiên của Sao Thổ được khám phá bởi William Cranch Bond, George
**Portia** ( ) là một vệ tinh tự nhiên thuộc vành đai trong của Sao Thiên Vương (_Uranus_). Nó được phát hiện từ những hình ảnh được chụp bởi Voyager 2 vào ngày 3 tháng
**Actaea** (/ kˈtiːə /), chính thức **(120347) Salacia I Actaea**, là vệ tinh tự nhiên duy nhất được biết đến của thiên thể vành đai Kuiper cổ điển 120347 Salacia. Đường kính của nó ước
**Pandia** , còn được biết là **Jupiter LXV**, ban đầu được gọi là **S/2017 J 4**, là một vệ tinh tự nhiên bên ngoài của Sao Mộc, đường kính là 3 km, bán kính là 1,5 km.
**Sao Diêm Vương** (**Pluto**) hay **Diêm Vương tinh** (định danh hành tinh vi hình: **134340 Pluto**) là hành tinh lùn nặng thứ hai đã được biết trong Hệ Mặt Trời (sau Eris) và là vật
**Sao Hải Vương** (tiếng Anh: **Neptune**), hay **Hải Vương Tinh** (chữ Hán: 海王星) là hành tinh thứ tám và xa nhất tính từ Mặt Trời trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh lớn thứ
**Charon** là vệ tinh tự nhiên lớn nhất của hành tinh lùn Sao Diêm Vương (Pluto), được phát hiện vào năm 1978. Sau khi phát hiện được thêm 2 vệ tinh khác của Sao Diêm
Bản đồ Mặt Trăng từ [[Andrees Allgemeiner Handatlas được ấn bản lần đầu tiên trước hội nghị của IAU vào năm 1881.]] Ảnh chụp chi tiết về [[Tombaugh Regio, một bức tranh khảm được dựng
nhỏ|Sơ đồ quỹ đạo cơ bản của một hệ hành tinh-bán vệ tinh. **Bán vệ tinh** hay **nửa vệ tinh** là một vật thể trong một loại cấu hình quỹ đạo đồng nhất định (cộng
**Neso** (/ ˈniːsoʊ / NEE-soh; tiếng Hy Lạp: Νησώ), còn được gọi là **Neptune XIII**, là vệ tinh tự nhiên ngoài cùng được biết đến của Sao Hải Vương. Đó là một vệ tinh không
**Hiʻiaka** là một vệ tinh tự nhiên của hành tinh lùn Haumea. ## Phát hiện Hiʻiaka là vệ tinh đầu tiên phát hiện ra xung quanh Haumea. Nó được đặt tên theo một trong các
Percival Lowell, người đưa ra giả thuyết về **Hành tinh X** **Hành tinh X** là một hành tinh giả thuyết lớn vận động theo một quỹ đạo nằm ngoài quỹ đạo của Sao Hải Vương.
**Tự nhiên** hay **thiên nhiên**, theo nghĩa rộng nhất, là thế giới hay vũ trụ mang tính vật chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng
**Titan** (phát âm tiếng Anh: ˈtaɪtən _TYE-tən,_ tiếng Hy Lạp: _Τῑτάν_) hoặc **Saturn VI** là vệ tinh lớn nhất của Sao Thổ, vệ tinh duy nhất có bầu khí quyển đặc và là vật thể