phải|nhỏ|Tên lửa liên lục địa Hoa Kỳ Atlas-A
Tên lửa liên lục địa, tên lửa xuyên lục địa, tên lửa vượt đại dương, còn được biết đến với ký tự tắt ICBM (viết tắt của intercontinental ballistic missile) là tên lửa đạn đạo có tầm bắn xa (hơn 5.500 km), được chế tạo để mang một hoặc nhiều đầu đạn hạt nhân cùng một lúc. Do khả năng bắn xa và năng lực chứa nhiều đầu đạn hạt nhân,tên lửa liên lục địa đặt trên tàu ngầm và căn cứ mặt đất là những lực lượng mang tính hủy diệt nhất nếu xảy ra chiến tranh hạt nhân toàn diện. Một lực lượng khác mang tầm quan trọng tương đương là các máy bay ném bom mang bom hạt nhân. Khác biệt với tên lửa đạn đạo chiến thuật (dưới 300 km), tên lửa đạn đạo tầm ngắn (dưới 1.000 km) và tầm trung (dưới 5.000 km), tên lửa liên lục địa có tốc độ lớn hơn và tầm bắn xa hơn rất nhiều.
Trong năm quốc gia thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc đã phát triển thành công tên lửa liên lục địa. Anh và Pháp có các tên lửa tầm trung và chủ yếu được phóng từ tàu ngầm.
Ấn Độ và Pakistan đều có tên lửa tầm trung và đang phát triển tên lửa liên lục địa. Bắc Triều đang phát triển tên lửa liên lục địa, vụ thử tên lửa gần đây năm 2017 của nước này đã thành công thật sự.
Năm 1991, Hoa Kỳ và Nga ký Hiệp ước START I, cắt giảm số lượng tên lửa này cùng đầu đạn hạt nhân.
Giới thiệu
phải|nhỏ|[[Minuteman (Tên lửa)|Minuteman II ICBM thế hệ số 2]]
Trong khi các tên lửa liên lục địa thế hệ thứ nhất có các động cơ tên lửa mang nhiên liệu lỏng và một phần cryogen, được thay thế dần sang nhiên liệu rắn. Động cơ tên lửa nhiên liệu rắn có hiệu quả thấp hơn, tuy nhiên dễ sử dụng và thời gian phản ứng ngắn hơn – tránh được việc nạp lại nhiên liệu.
Tên lửa liên lục địa hiện nay có tầng đẩy cuối cùng là động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng, tuy nhiên có thể điều chỉnh được. Những tầng tên lửa này có khả năng trữ, nghĩa là nhiên liệu bên trong vẫn giữ được những đặc tính hóa học của mình qua nhiều năm.
Các giai đoạn bay của tên lửa
Các giai đoạn bay của tên lửa liên lục địa:
- Giai đoạn tăng tốc: từ 3 đến 5 phút sau khi rời bệ phóng (tên lửa dùng nhiên liệu rắn kết thúc giai đoạn này sớm hơn loại dùng nhiên liệu lỏng), tầm cao đạt được cuối giai đoạn này là 150 đến 400 km tùy thuộc vào quỹ đạo được lựa chọn, tốc độ đạt được khoảng 7 km/giây
- Giai đoạn giữa: bay khoảng 25 phút bay theo quỹ đạo đường elip trên tầng khí quyển của Trái Đất, độ cao lớn nhất đạt được lên đến 1200 km
- Giai đoạn trở lại tầng khí quyển: bắt đầu khi khoảng cách với bề mặt Trái Đất khoảng 100 km, kéo dài khoảng 2 phút, tiếp cận mục tiêu với tốc độ 4 km/giây, những tên lửa thế hệ đầu chỉ đạt dưới 1 km/giây.
Lịch sử phát triển
Ý tưởng về tên lửa liên lục địa manh nha trong dự án A9/10 của Đức do nhà khoa học Wernher von Braun đề xuất nhưng không bao giờ được phát triển. Von Braun cũng là người thiết kế tên lửa V-2 của nước Đức quốc xã, tiền thân của tên lửa đạn đạo tầm trung sau này. V-2 là tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng và hệ thống dẫn đường theo quán tính, được phóng từ các bệ phóng di động để tránh không quân phe Đồng minh tấn công.
Sau Thế chiến thứ hai, von Braun cùng nhiều nhà khoa học của Đức khác được bí mật đưa sang Hoa Kỳ và làm việc cho quân đội Mỹ trong chương trình cải tiến tên lửa V-2 thành các tên lửa tầm trung Redstone và Jupiter. Nhờ các hiệp ước liên minh quân sự, Hoa Kỳ có thể bố trí tên lửa tầm trung ở các quốc gia lân cận Liên Xô, đặt lãnh thổ Liên Xô trong tầm bắn của các vũ khí hạt nhân.
Chương trình phát triển tên lửa liên lục địa của Liên Xô được khởi xướng từ trước Thế chiến thứ hai, tuy vậy, đến những năm 1950, Liên Xô vẫn chưa phát triển thành công. Dưới sự chỉ đạo của tổng công trình sư Sergei Korolev, chương trình này được đẩy mạnh. Korolev có các bộ phận của tên lửa V-2 nhưng ông nhận thấy thiết kế của V2 không đáp ứng yêu cầu của loại tên lửa mới. Ông đã phát triển cấu trúc mới và tên lửa R-7 ra đời, được thử nghiệm tháng 8 năm 1957. Ngày 04 tháng 10 năm 1957, tên lửa này đưa vệ tinh đầu tiên - Sputnik 1, lên quỹ đạo không gian, mở ra kỷ nguyên chinh phục khoảng không vũ trụ của loài người.
Nước Anh xây dựng tên lửa liên lục địa Blue Streak nhưng không bao giờ đưa vào sử dụng bởi khó khăn trong việc chọn căn cứ phóng cách xa các khu dân cư.
Ở Mỹ, cạnh tranh giữa các lực lượng vũ trang thời kỳ này đồng nghĩa với sự phát triển các chương trình tên lửa liên lục địa riêng biệt, làm chậm tiến trình đáng kể. Tên lửa liên lục địa đầu tiên của Mỹ mang tên Atlas ra đời năm 1959. Dù được phát triển sau R-7 hai năm nhưng Atlas vẫn gặp nhược điểm tương tự của R-7 là cần có bệ phóng và các thiết bị hỗ trợ cồng kềnh, điều này làm nó dễ bị phát hiện và tấn công. Mặt khác nhiên liệu lỏng phải được nạp vào tên lửa trước khi bắn, nên càng tốn thời gian và tăng nguy cơ bị tấn công. Các tên lửa liên lục địa đầu tiên chính là các tên lửa vũ trụ. Ví dụ: Atlas, Redtone, Titan, R-7 và Proton là các dự án tên lửa lên lục địa nhưng sau đó chuyển hướng phát triển thành tên lửa vũ trụ. Dưới sự điều hành của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara, các lên lửa liên lục địa sử dụng nhiên liệu rắn LGM-30 Minuteman (phóng từ căn cứ đất liền), Polaris (phóng từ tàu ngầm) và Skybolt (phóng từ máy bay) bắt đầu được phát triển. Ngày nay, tên lửa liên lục địa có kích trước nhỏ hơn trước (nhờ tăng tính chính xác, đầu đạn nhỏ, nhẹ hơn), đều sử dụng nhiên liệu rắn và có thể bắn từ bệ phóng đơn giản hơn.
nhỏ|[[Peacekeeper ICBM thế hệ số 3]]
Theo học thuyết chiến lược về Hủy diệt song phương, việc huy động tên lửa liên lục địa sẽ dẫn đến cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện mà cả hai bên tấn công và phòng thủ (rồi phản công) đều bị hủy diệt.
Những năm 1970, việc phát triển các hệ thống phòng thủ chống tên lửa của Hoa Kỳ và Liên Xô đều bị hạn chế bởi thỏa ước nhằm duy trì tính đe dọa của các hệ thống tên lửa liên lục địa. Tổng thống Ronald Reagan phát động các chương trình Phòng thủ Chiến lược chủ động, Tên lửa liên lục địa MX và Midgetman. Động thái này dẫn đến các cuộc đàm phán trong khuôn khổ Hiệp ước giải trừ vũ khí chiến lược.
Những quốc gia đang ở trong giai đoạn phát triển tên lửa liên lục địa đều dùng nhiên liệu lỏng bởi tính đơn giản.
Tên lửa liên lục địa ở các nước
Phóng tên lửa liên lục địa Hoa Kỳ kiểu Titan
(Chữ nghiêng = đang sử dụng, còn lại là lỗi thời, hay đang phát triển)
Vương quốc Anh:
- Phóng từ tàu ngầm
Polaris (Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm) (Tên lửa Hoa Kỳ với sự chỉnh sửa của Anh)
Trident (Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm) II (Tên lửa Hoa Kỳ với sự chỉnh sửa của Anh)
Ấn Độ:
CHDCND Triều Tiên:
- Mặt đất
No-dong-B (sử dụng tạm thời)
Taepodong X
Taepodong-1
Taepodong-2
NKSL-1 (Taepodong-1 với 3 tầng, có thể mang vệ tinh lên quỹ đạo, sử dụng tạm thời)
NKSL-X-2 (Taepodong-2 với 3 tầng, có thể mang vệ tinh lên quỹ đạo, sử dụng tạm thời)
Hoa Kỳ:
- Mặt đất
CGM-16 Atlas
HGM-25A Titan I
LGM-25C Titan II
LGM-30A/B Minuteman I
LGM-30F Minuteman II
LGM-30G Minuteman III
LGM-118 Peacekeeper
MGM-134 Midgetman ICBM nhỏ (không còn dùng)
- Phóng từ tàu ngầm
UGM-27A Polaris A-1
UGM-27B Polaris A-2
UGM-27C Polaris A-3
UGM-73 Poseidon C-3
UGM-93 Trident I C-4
UGM-133 Trident II D-5
Liên Xô / Nga:
- Mặt đất (Sử dụng của Xô Viết. Tên ký hiệu của Cục phòng vệ, Nato trong ngoặc).
R-7 (SS-6, Dác gỗ)
R-9 (SS-8, Sasin)
GR-1 (SS-10 Tên khẳng khiu, không còn dùng)
R-16 (SS-7 Thợ yên cương)
R-26 (SS-8 Sasin, Verwechslung mit R-9, không còn dùng)
R-36 (SS-9 Dốc đứng)
R-36-O (SS-9 FOBS, R-36)
R-36M "Voivode" (SS-18 Ma vương) (các phiên bản khác nhau)
UR-100 (SS-11 Sego)
UR-100MR „Sotka" (SS-17 Ngựa tốc hành)
UR-100N (SS-19 Dao găm nhỏ)
UR-200 (SS-X-10 Tên khẳng khiu, Verwechslung mit GR-1, không còn dùng)
UR-500 "Proton" (không còn dùng)
RT-1 (Nato không có tên, không còn dùng)
RT-2 (SS-13 Người hoang dã)
RT-20P (SS-15 Tên bần tiện)
RT-21 "Temp-2S" (SS-16 Tội phạm)
RT-2PM "Topol" (SS-25 Cái liềm)
RT-2UTTH "Topol-M" (SS-27), thử nghiệm thành công về khả năng di động vào 24 tháng 12 năm 2004 ở Plesezk
RT-23 "Molodets" (SS-24 Dao mổ)
** RSS-40 "Kuryer" (Nato-Code SS-X-26 là lỗi thời, dự án đã bị ngưng)
- Phóng từ tàu ngầm
SS-N-4 Sark R-13
SS-N-6 "Người Serbia" R-27
Volna (Tên lửa) bzw. R-29 SS-N-18 Ong châm
SS-N-20 Cá tầm R-39 (Tên lửa)
SS-N-30 Bulava
RS-28 Sarmat
Pakistan:
- Mặt đất
** Tipu (đang thử hay lầm với tên lửa khác)
Pháp:
- Phóng từ tàu ngầm
M-45
M-5 (dự án)
** M 51
Trung Quốc
- Mặt đất
DF-3 (Dự án đã bị ngưng)
DF-5 (tên sử dụng khác CSS-4)
DF-6 (Dự án đã bị ngưng)
DF-22 (tên sử dụng khác DF-14, dự án đã bị ngưng)
DF-31 (tên sử dụng khác CSS-X-9 hay CSS-9, đang được đưa vào sử dụng)
DF-41 (tên sử dụng khác CSS-X-10, được đưa vào sử dụng vào 2010)
Giải trừ quân bị
- Hiệp ước ABM
- Hiệp ước START
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
phải|nhỏ|Tên lửa liên lục địa Hoa Kỳ Atlas-A **Tên lửa liên lục địa**, **tên lửa xuyên lục địa**, **tên lửa vượt đại dương**, còn được biết đến với ký tự tắt **ICBM** (viết tắt của
thumb|Giếng phóng của tên lửa [[RT-23 Molodets (SS-24) tại Bảo tàng Lực lượng tên lửa chiến lược, Ukraine.]] Giếng phóng tên lửa đạn đạo, hay đầy đủ hơn là tổ hợp phóng tên lửa đạn
Tên lửa đạn đạo liên lục địa MX Peacekeeper của Hoa Kỳ đang được phóng thử nghiệm **Tên lửa đạn đạo** là loại tên lửa có phần lớn quỹ đạo sau khi phóng tuân theo
phải|nhỏ|300x300px| Các loại tên lửa IRBM và MRBM **Tên lửa đạn đạo tầm trung-xa** (**IRBM**) là loại tên lửa đạn đạo có tầm bắn từ 3.000 đến 5.500 km (1.864–3.418 dặm), nằm ở khoảng giữa tên lửa
**Tên lửa chống tên lửa đạn đạo** (_anti-ballistic missile_ - ABM) là một tên lửa được thiết kế để chống lại các tên lửa đạn đạo (một tên lửa dùng để phòng thủ tên lửa).
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
thumb|A [[UGM-96 Trident I clears the water after launch from a US Navy submarine in 1984]] **Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm** (tiếng Anh: **submarine-launched ballistic missile**, viết tắt:**SLBM**) là một tên lửa
Tên lửa **R-36** () là một họ tên lửa đạn đạo liên lục địa và tên lửa đẩy (Tsyklon) được thiết kế bởi Phòng thiết kế Yuzhnoye, Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
**R-16** là loại tên lửa đạn đạo liên lục địa đầu tiên được Liên Xô triển khai thành công. Đối với phương Tây nó được biết đến dưới định danh của Nato là **SS-7 Saddler**,
**Dongfeng-5** (đọc theo âm Hán Việt là Đông Phong-5) là loại tên lửa đạn đạo liên lục địa, được Trung Quốc chế tạo từ giữa những năm 70 dựa trên thiết kế của tên lửa
phải|nhỏ| Tên lửa DF-31A sau cuộc duyệt binh năm 2015 phải|nhỏ| Tầm bắn của nhiều loại tên lửa Trung Quốc (năm 2007); Tầm bắn của DF-31 được đánh dấu màu xanh lá. **DF-31** (Hán Việt:
**Dong feng 5** (Đông Phong) hay **DF-5** là loại tên lửa đạn đạo liên lục địa của Trung Quốc. Tên lửa DF-5 có chiều dài 32,6 m và đường kính 3,35 m. Nó nặng 183.000 kg
**DF-4** (Hán Việt: Đông Phong 4; ; tên định danh NATO: **CSS-3**) là một loại tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) hai tầng thế hệ thứ nhất thuộc dòng tên lửa Đông Phong
Sau đây là **danh sách tên lửa** và các loại tên lửa. ## Danh sách tên lửa theo loại * **Tên lửa dẫn hướng thường dùng** ** Tên lửa không đối không ** Tên lửa
thumb|upright=1.2|Đầu đạn MIRV trên tên lửa [[LGM-118 Peacekeeper. Các đầu đạn được tô màu đỏ.]] thumb|Các kỹ thuật viên đang bảo trì đầu đạn MIRV Mk21 trên tên lửa [[LGM-118 Peacekeeper]] thumb|upright|Đầu đạn MIRV của
A payload launch vehicle carrying a prototype exoatmospheric kill vehicle is launched from [[Meck Island at the Kwajalein Missile Range on 3 tháng 12 năm 2001, for an intercept of a ballistic missile target over
nhỏ|phải|Tên lửa Redstone của [[chương trình Mercury]] alt=|thumb|Tên lửa [[Soyuz TMA-9 được phóng đi ở trung tâm vũ trụ Baykonur, Site 1/5 ở Kazakhstan]] Mô hình tên lửa **Tên lửa** hay **hỏa tiễn** là một
**MGM-134A Midgetman**, còn gọi là Tên lửa liên lục địa cỡ nhỏ-Small Intercontinental Ballistic Missile (SICBM), là một loại tên lửa đạn đạo liên lục địa do Không quân Mỹ phát triển. Hệ thống tên
**Khủng hoảng tên lửa Cuba** (tiếng Anh: _Cuban Missile Crisis_ hay còn được biết với tên gọi _Khủng hoảng tháng 10_ tại Cuba) là cuộc đối đầu giữa Liên Xô – Cuba với Hoa Kỳ
Tên lửa Soyuz-U mang tàu vũ trụ [[Soyuz TM-31 chở theo phi hành đoàn đầu tiên lên Trạm Vũ trụ Quốc tế - [https://en.wikipedia.org/wiki/Expedition_1 Expedition 1] - phóng vào ngày 31 tháng 10 năm 2000.]]
**SM-65 Atlas** là tên lửa đường đạn liên lục địa (ICBM) đầu tiên được phát triển và triển khai bởi Hoa Kỳ. Nó được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ bởi chi nhánh Convair
nhỏ|500x500px|Các pha của quỹ đạo trượt **Non-ballistic atmospheric entry hay hồi quyển phi đạn đạo** là một loại quỹ đạo thâm nhập khí quyển phi đạn đạo nhờ sử dụng cánh khí động học ở
**RSD-10 _Pioneer**_ ( tr.: _raketa sredney dalnosti (RSD) "Pioner"_; ) là tên lửa đạn đạo tầm trung mang đầu đạn hạt nhân, được Liên Xô triển khai từ năm 1976 đến năm 1988. Nó có
**UR-100N**, hay còn được biết đến là **RS-18A** là một tên lửa đạn đạo liên lục địa của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay. Tên ký hiệu của NATO cho tên lửa là
**Atlas** là một dòng tên lửa đẩy của Mỹ phát triển dựa trên tên lửa đạn đạo liên lục địa SM-65 Atlas. Chương trình tên lửa đạn đạo liên lục địa Atlas ban đầu được
**Titan** là tên một dòng tên lửa đẩy sử dụng một lần của Hoa Kỳ sử dụng trong giai đoạn từ năm 1959 đến 2005. Titan I và Titan II là 2 loại tên lửa
**Hwasong-18** (Tiếng Hàn: 《화성포-18》형; Hanja: 火星砲 18型;
phiên âm Hán-Việt: _Hỏa Tinh-18_) là một hệ thống tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Nó là
**Agni-V**' là tên lửa đạn đạo liên lục địa sử dụng nhiên liệu rắn được phát triển bởi DRDO của Ấn Độ. Tên lửa đạn đạo liên lục địa Agni-V có tầm phóng hơn 5.500 km.
**MR-UR-100 Sotka** là tên lửa đạn đạo liên lục địa có trang bị đầu đạn MIRV được Liên Xô phát triển và triển khai từ năm 1978 đến 1993. Tên ký hiệu của NATO là
Tên lửa **Bulava** (, nghĩa là "cái chuỳ") là một tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm đang được phát triển để trang bị cho Hải quân Nga. Viện Công nghệ Nhiệt Moskva chịu
**RS-26 Rubezh** (tiếng Nga: _РС-26 Рубеж_) (_ranh giới_ hay _biên giới_, còn được biết đến trong chương trình phát triển **phương tiện bay dạng tàu lượn siêu vượt âm Avangard** _Авангард_) SS-X-31 hay SS-X-29B (một
Vào sáng ngày thứ Bảy, ngày 13 tháng 1 năm 2018, một báo động về tên lửa đạn đạo đã vô tình bị phát đi bằng Hệ thống Cảnh báo Khẩn cấp và Hệ thống
**Hệ thống tên lửa Tor** (; ) là một hệ thống tên lửa đất đối không tầm thấp, được thiết kế để tiêu diệt máy bay, trực thăng, tên lửa hành trình, phương tiện bay
nhỏ|300x300px|[[Tàu ngầm Đề án 651|Tàu ngầm Đề án 651 (Juliet) mang tên lửa hành trình]] nhỏ|300x300px|Tàu ngầm bắn thử nghiệm tên lửa Regulus **Cruise missile submarine** hay **Tàu ngầm mang tên lửa hành trình** là
**Juno I** là một tên lửa đẩy phóng vệ tinh bốn tầng của Mỹ. Đây là loại tên lửa đã đưa vệ tinh đầu tiên của Mỹ- Explorer 1 lên quỹ đạo vào năm 1958.
**Xung đột liên Triều** dựa trên sự mâu thuẫn trong quan điểm chính trị giữa Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc và Đại Hàn Dân Quốc ở phía Nam, cả
**RT-21 Temp 2S** là tên lửa đạn đạo xuyên lục địa phóng từ bệ phóng di động được Liên Xô phát triển trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Ký hiệu của NATO là **SS-16 Sinner**,
nhỏ|[[Yuri Gagarin người đầu tiên bay vào vũ trụ]] **Chương trình vũ trụ Liên Xô** (, _Kosmicheskaya programma SSSR_) bao gồm một số chương trình tên lửa và thám hiểm không gian được Liên Xô
**Sergey Pavlovich Korolyov** (Tiếng Nga: Сергей Павлович Королёв, tiếng Ukraina: Сергій Павлович Корольов) (12 tháng 1 năm 1907 – 14 tháng 1 năm 1966), thường gọi **_Sergey Korolyov_** hoặc **_Sergei Korolev_**, là một nhà khoa
Tên **lửa UGM-27 Polaris** là một tên lửa đạn đạo hai tầng nhiên liệu rắn phóng từ tàu ngầm. Đây là SLBM đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ, nó được trang bị từ năm
thumb|[[Xe tăng chủ lực T-90 trong lễ duyệt binh 9-5 (28)]] **Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga** (), thường được gọi là **Lực lượng Vũ trang Nga** hay **Quân đội Nga**, là lực lượng
phải|Tên lửa **Vostok** (Восток-Phương Đông), một trong những phiên bản phát triển từ tên lửa R-7, tại Trung tâm Triển lãm toàn Nga **Tên lửa R-7** (tiếng Nga: Р-7 "Семёрка", tiếng Anh: R-7 Semyorka) là
**Hệ thống chiến đấu Aegis** do Hải quân Mỹ triển khai, được mệnh danh là hệ thống chiến đấu tiên tiến và phức tạp nhất thế giới. Aegis là sự kết hợp các thiết bị
right|thumb|Sơ đồ phác thảo của một động cơ phản lực thẳng thumb|right|Sơ đồ thiết bị ĐCPL dòng thẳng sử dụng nhiên liệu lỏng.
1. Dòng không khí đi vào;
2. Vật trung
nhỏ|300x300px| [[Space Shuttle|Phi thuyền không gian được phóng đi nhờ 2 tầng đẩy nhiên liệu rắn, hay còn gọi là SRBs]] Một **Tên lửa đẩy nhiên liệu rắn** là tên lửa có động cơ sử
**Vladimir Nikolayevich Chelomey** hay **Chelomei** (; 30 tháng 6 năm 1914 - 8 tháng 12 năm 1984) là một nhà kỹ sư cơ khí, hàng không và kỹ sư tên lửa Liên Xô. Ông đã
**Tên lửa đẩy Vanguard** là loại tên lửa đẩy được dự kiến trở thành tên lửa đẩy phóng vệ tinh đầu tiên của Mỹ lên quỹ đạo. Tuy nhiên, việc Liên Xô phóng vệ tinh
**Tập đoàn Công nghệ Khai phá Không gian**, viết tắt theo tiếng Anh **SpaceX** (**Space Exploration Technologies Corporation**), là một công ty tư nhân Mỹ chuyên sản xuất tên lửa đẩy và tàu vũ trụ
**Mikhail Kuzmich Yangel** (; 7/11/1911 – 25/10/1971), là một kỹ sư và nhà thiết kế tên lửa hàng đầu của Liên Xô. ## Tiểu sử Yangel là con của một tù nhân chính trị Nga
phải| Một tên lửa tầm dài không đối không [[AIM-54 Phoenix của Hải quân Hoa Kỳ phóng từ máy bay chiến đấu F-14 Tomcat.]] **Tên lửa không đối không** (air-to-air missile: **AAM**) là tên lửa