✨Dòng tên lửa đẩy Atlas

Dòng tên lửa đẩy Atlas

Atlas là một dòng tên lửa đẩy của Mỹ phát triển dựa trên tên lửa đạn đạo liên lục địa SM-65 Atlas. Chương trình tên lửa đạn đạo liên lục địa Atlas ban đầu được phát triển bởi Convair, một bộ phận của General Dynamics từ cuối những năm 1950. Tên lửa Atlas là một loại tên lửa nhiên liệu lỏng sử dụng nhiên liệu RP-1, và Oxy lỏng làm chất ô xy hóa với 3 động cơ theo cấu hình thiết kế khá bất thường: "một tầng đẩy rưỡi" hay "tầng đẩy song song": hai tầng đẩy phụ bên ngoài cung cấp lực đẩy lúc cất cánh, trong khi động cơ trung tâm cung cấp lực đẩy duy trì trong suốt cả chuyến bay, các thùng chứa nhiên liệu cùng với các cấu trúc khác vẫn kết nối với nhau sau khi động cơ ngừng hoạt động.

Tên Atlas ban đầu được đề xuất bởi Karel Bossart và nhóm thiết kế của ông làm việc tại Convair trong dự án MX-1593. Mang tên của một người khổng lồ hùng mạnh trong thần thoại Hy Lạp, ngụ ý của nhóm thiết kế phản ánh vị trí của tên lửa là lớn nhất và mạnh nhất vào thời điểm đó. Atlas cũng là tên công ty mẹ của Convair: Tập đoàn Atlas..

Tên lửa chỉ đóng vai trò là ICBM trong một khoảng thời gian ngắn, lữ đoàn tên lửa Atlas cuối cùng bị loại biên vào năm 1965. Tuy nhiên, từ năm 1962 đến năm 1963, Atlas LV-3B đã lần đầu tiên đưa 4 nhà du hành vũ trụ người Mỹ lên quỹ đạo Trái đất (trong các chuyến bay bằng tên lửa đẩy Redstone trước đó, phi hành gia Alan Shepard và Gus Grissom chỉ mới thực hiện chuyến bay dưới quỹ đạo trong sứ mệnh Freedom 7 và Liberty Bell 7). Tên lửa Atlas-Agena và Atlas-Centaur cũng là một phiên bản của tên lửa Atlas. Atlas-Centaur được phát triển tiếp để trở thành Atlas II, một loạt các cấu hình tên lửa, mà đã thực hiện 63 lần phóng, từ năm 1991 đến năm 2004. Tên lửa Atlas III trong khi đó chỉ thực hiện 6 lần phóng từ năm 2000 đến 2005. Tên lửa Atlas V hiện nay vẫn còn đang hoạt động.

Hơn 300 lần phóng tên lửa Atlas được trực hiện từ Trung tâm phóng tên lửa Mũi Canaveral, Florida và 285 lần phóng tên lửa được thực hiện từ căn cứ không quân Vandenberg, California.

Phương tiện phóng tàu vũ trụ dựa trên tên lửa ICBM Atlas nguyên bản

Tên lửa Atlas được sử dụng làm phương tiện phóng tàu vũ trụ, với tầng tên lửa mang tải trọng Agena và Centaur để phóng tàu thăm dò Mariner nhằm thám hiểm sao Thủy, sao Kim, và sao Hỏa (1962–1973); và thực hiện 10 lần phóng tên lửa phục vụ chương trình Mercury (1962–1963).

SM-65 Atlas

nhỏ|SM-65A Atlas, 1958 Tên lửa ICBM SM-65 Atlas lần đầu phóng thử thành công vào ngày 17/12/1957.

SM-65B Atlas SCORE

nhỏ|Atlas-B với tải trọng vệ tinh SCORE năm 1958 Các tên lửa Atlas thế hệ đầu cũng được chế tạo đặc biệt dành riêng cho mục đích dân sự. Ngày 18/12/1958, một tên lửa Atlas đã được sử dụng để phóng vệ tinh liên lạc dạng khinh khí cầu Signal Communication by Orbiting Relay Equipment (SCORE). Vệ tinh được đưa vào trong quỹ đạo Trái đất tầm thấp trên tên lửa Atlas số sê ri 10B. Atlas 10B/SCORE, với khối lượng đã trở thành vệ tinh nhân tạo nặng nhất được đưa vào quỹ đạo, và là vệ tinh nhân tạo đầu tiên đưa vào không gian mà có khả năng nhìn được bằng mắt thường. Đây cũng là lần đầu tiên Atlas được sử dụng để phóng vệ tinh vào quỹ đạo.

Atlas-D

phải|nhỏ|262x262px|Phóng tên lửa [[Mercury-Atlas 2 từ bệ phóng LC-14 tháng 2 năm 1961]]

Chương trình Mercury

nhỏ|Mercury-Atlas 9 Tên lửa đẩy Atlas được sử dụng để thực hiện 4 sứ mệnh có người lái cuối cùng trong chương trình Mercury, chương trình đưa người lên vũ trụ đầu tiên của Mỹ. Ngày 20/2/1962, tên lửa phóng lên vũ trụ tàu Friendship 7 cùng với phi hành gia John Glenn. Tàu vũ trụ đã thực hiện 3 vòng quỹ đạo quanh Trái đất. Cũng chính cấu hình tên lửa Atlas này đã thành công trong việc đưa ba nhà du hành vũ trụ tiếp theo trong sứ mệnh Mecury lên quỹ đạo từ năm 1962 đến năm 1963.

Atlas LV-3B cũng được sử dụng vào giữa thập kỷ 60 phục vụ chương trình Gemini.

Atlas-Agena

nhỏ|Atlas-Agena Từ năm 1960, tên lửa đẩy Atlas đã sử dụng tầng đẩy mang theo tải trọng Agena, sử dụng hypergolic propellant. Không quân Mỹ, NRO và CIA sử dụng tên lửa đẩy Atlas-Agena để phóng vệ tinh SIGINT. Trong khi NASA sử dụng trong chương trình Ranger với nhiệm vụ chụp những bức ảnh đầu tiên về bề mặt Mặt trăng ở cự ly gần, và cho sứ mệnh Mariner 2, sứ mệnh đưa tàu vũ trụ đầu tiên bay lên hành tinh khác.

Atlas-Centaur

nhỏ|Atlas-Centaur Cấu hình tên lửa Atlas-Centaur được phát triển từ tên lửa SM-65 Atlas, trong đó, động cơ được nâng cấp, và cấu trúc thân tên lửa được gia cố để mang theo tầng tên lửa chứa tải trọng lớn hơn, cùng với việc kéo dài bình chứa nhiên liệu tên lửa.

Lần phóng lần đầu diễn ra vào tháng 5 năm 1962 thất bại, tên lửa nổ tung sau khi phóng.

Từ năm 1963, tầng đẩy mang tải trọng Centaur sử dụng động cơ nhiên liệu Hydro lỏng, cũng được sử dụng trên nhiều đợt phóng tên lửa Atlas. NASA đã thực hiện chương trình Surveyor và phần lớn các vụ phóng tên lửa trong chương trình Mariner dựa trên tên lửa Atlas-Centaur.

Atlas E/F

Sau khi SM-65 Atlas được rút khỏi biên chế của Lực lượng tên lửa chiến lược của Mỹ, tên lửa Atlas-E, cùng với Atlas-F, được tân trang lại với mục đích trở thành tên lửa phóng tàu vũ trụ.

Tên lửa cấu hình Atlas-F đã được phóng lần cuối vào ngày 24 tháng 3 năm 1995. Trong khi tên lửa Atlas-E phóng lên quỹ đạo lần cuối cùng diễn ra vào ngày 23/6/1981.

Cấu hình tên lửa đẩy Atlas E/F được sử dụng để phóng chuỗi vệ tinh Block I của hệ thống định vị GPS từ năm 1978 đến năm 1985.

Kỷ nguyên RD-180

Atlas III

Tên lửa đẩy Atlas III không sử dụng cấu hình 3 động cơ và 1,5 tầng đẩy như nguyên thủy, thay vào đó nó sử dụng 1 động cơ RD-180 duy nhất do NPO Energomash phát triển, trong khi vẫn giữ nguyên cấu trúc của thân vỏ của tên lửa. Tên lửa Atlas III tiếp tục sử dụng tầng đẩy mang tải trọng Centaur, trang bị 1 hoặc 2 động cơ RL10.

Atlas V

Tên lửa đẩy Atlas V, hiện vẫn còn đang hoạt động, được phát triển bởi Lockheed Martin thep chương trình Cải tiến phương tiện phóng tàu vũ trụ dùng một lần (tiếng Anh: Evolved Expendable Launch Vehicle (EELV)). Tên lửa được phóng lần đầu vào 21/8/2002. Năm 2006, quyền sử dụng tên lửa đẩy Atlas V được tiếp quản bởi United Launch Alliance (ULA), một liên doanh giữa Lockheed Martin và Boeing. Lockheed Martin vẫn tiếp tục quảng bá tên lửa Atlas V trên thị trường phóng tàu vũ trụ thương mại. Atlas V được chế tạo tại nhà máy của ULA đặt tại Decatur, Alabama, và duy trì sử dụng hai bệ phóng số 41 tại Trung tâm phóng tàu vũ trụ mũi Canaveral và bệ phóng 3-E tại Căn cứ không quân Vandenberg.

Tầng đẩy 1 của Atlas V vẫn sử dụng động cơ Energomash RD-180 đã từng được sử dụng trên Atlas III, nhưng sử dụng khung thân cứng thay cho khung thân mỏng manh như ở tên lửa Atlas thế hệ cũ. Thân tên lửa do đó sẽ nặng hơn, nhưng sẽ đơn giản hơn trong việc sử dụng và vận chuyển, mà không còn phải luôn duy trì áp suất trong tên lửa. Ngoài ra tên lửa sử dụng tới 5 động cơ đẩy phụ nhiên liệu rắn của Aerojet Rocketdyne để tăng lực đẩy. Tầng đẩy mang tải trọng của tên lửa vẫn là tầng đẩy Centaur với 1 hoặc 2 động cơ Aerojet Rocketdyne RL10.

RD-180 phaseout

Năm 2014, Quốc hội Mỹ đã thông qua bộ luật theo đó hạn chế việc mua và sử dụng động cơ RD-180 của Nga. Hợp đồng cung cấp động cơ tên lửa mới đã được đưa ra vào tháng 6 năm 2014 dành cho các nhà sản xuất động cơ tên lửa của Mỹ.

Vào tháng 9 năm 2014, ULA tuyên bố công ty đang tham gia liên doanh với công ty Blue Origin để phát triển động cơ BE-4 sử dụng nhiên liệu LOX/methan lỏng để sử dụng trên tên lửa đẩy Vulcan. Động cơ này đã được Blue Origin phát triển trong vòng 8 năm, và ULA dự kiến tầng đẩy mới với động cơ mới sẽ không thể hoạt động sớm hơn 2021.

Tháng 12 năm 2014, bộ luật của Quốc hội Mỹ đưa ra để ngăn việc ký hợp đồng phóng tên lửa đẩy phục vụ mục đích quân sự sử dụng động cơ của Nga. Tuy nhiên ULA vẫn được phép tiếp tục sử dụng 29 động cơ RD-180 mà công ty đã đặt mua từ trước đó.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Atlas** là một dòng tên lửa đẩy của Mỹ phát triển dựa trên tên lửa đạn đạo liên lục địa SM-65 Atlas. Chương trình tên lửa đạn đạo liên lục địa Atlas ban đầu được
**Titan** là tên một dòng tên lửa đẩy sử dụng một lần của Hoa Kỳ sử dụng trong giai đoạn từ năm 1959 đến 2005. Titan I và Titan II là 2 loại tên lửa
**Tên lửa đẩy Vanguard** là loại tên lửa đẩy được dự kiến trở thành tên lửa đẩy phóng vệ tinh đầu tiên của Mỹ lên quỹ đạo. Tuy nhiên, việc Liên Xô phóng vệ tinh
thumb|Khoảng 2 L nhiên liệu RP-1 **RP-1** (hay **Rocket Propellant-1** hoặc **Refined Petroleum-1**) là một loại nhiên liệu tinh chế từ kerosene (gần giống như nhiên liệu phản lực) được sử dụng là nhiên liệu
nhỏ|300x300px| [[Space Shuttle|Phi thuyền không gian được phóng đi nhờ 2 tầng đẩy nhiên liệu rắn, hay còn gọi là SRBs]] Một **Tên lửa đẩy nhiên liệu rắn** là tên lửa có động cơ sử
phải|Sơ đồ ĐTL hai thành phần nhiên liệu dùng máy bơm **Động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng** hay **Động cơ tên lửa lỏng** (ký hiệu ĐTL) là loại động cơ tên lửa sử dụng
phải|nhỏ|Tên lửa nghiên cứu [[Black Brant (rocket)|Black Brant 12 do Bristol Aerospace sản xuất.]] phải|nhỏ|Động cơ trên tầng 2 của tên lửa [[LGM-30 Minuteman#Minuteman-III (LGM-30G)|Minuteman III ]] **Tên lửa nhiều tầng đẩy** (tiếng Anh: **multistage
**Energia** (; GRAU 11K25) là một tên lửa đẩy siêu nặng (Nó có khả năng mang tải trọng lên tới 100 tấn). Nó được thiết kế bởi NPO Energia, một viện thiết kế tên lửa
**SM-65 Atlas** là tên lửa đường đạn liên lục địa (ICBM) đầu tiên được phát triển và triển khai bởi Hoa Kỳ. Nó được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ bởi chi nhánh Convair
phải|nhỏ|Tên lửa liên lục địa Hoa Kỳ Atlas-A **Tên lửa liên lục địa**, **tên lửa xuyên lục địa**, **tên lửa vượt đại dương**, còn được biết đến với ký tự tắt **ICBM** (viết tắt của
**Rocketdyne** là một công ty chuyên thiết kế động cơ tên lửa của Mỹ, có trụ sở đặt tại Canoga Park, phía Tây thung lũng San Fernando, ngoại ô Los Angeles, California. Rocketdyne Division được
nhỏ|Nhiên liệu hypergolic [[hydrazine đang được nạp vào vệ tinh_MESSENGER_. Kỹ thuật viên bắt buộc phải mặc bộ đồ bảo hộ do tính độc hại của nhiên liệu.]] **Chất đẩy Hypergolic** là một loại nhiên
**Titan IIIC** là hệ thống phóng tàu vũ trụ dùng một lần, do Không quân Mỹ vận hành từ năm 1965 đến năm 1982. Nó là phiên bản tên lửa đầu tiên trong dòng tên
**Juno II** là phương tiện phóng vệ tinh được Mỹ sử dụng trong giai đoạn cuối thập niên 1950 và đầu những năm 1960. Nó được thiết kế dựa trên tên lửa PGM-19 Jupiter với
**PGM-19 Jupiter** là một tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân tầm trung của Không quân Mỹ. Nó là tên lửa nhiên liệu lỏng sử dụng nhiên liệu RP-1 và chất oxy hóa
**Tập đoàn Martin Marietta** tiếng Anh: **Martin Marietta Corporation** là một công ty quốc phòng của Mỹ thành lập năm 1961 với việc sáp nhập Glenn L. Martin Company và Tập đoàn American-Marietta. Công ty
**Dãy núi Atlas** (tiếng Berber: idurar n Watlas, tiếng Ả Rập: جبال الأطلس) là một dãy núi thuộc vùng Maghreb, tây bắc châu Phi. Với độ dài khoảng 2.500 km qua Maroc, Algérie, và Tunisia, dãy
**Các tên lửa Delta IV là** các phiên bản tân tiến nhất từ năm 1960 bắt nguồn từ tên lửa Delta là Delta IV đã được phát triển như một phần của chương trình EELV
**Atlas Cheetah** là một loại máy bay tiêm kích phục vụ trong Không quân Nam Phi (SAAF) từ năm 1986 đến năm 2008. Đầu tiên đây nó được chế tạo như một bản nâng cấp
**Falcon 1** là một thiết bị phóng sử dụng một lần được SpaceX phát triển và sản xuất từ 2006 đến 2009. Vào ngày 28 tháng 9 năm 2008, Falcon 1 trở thành tên lửa
Tàu quỹ đạo thử nghiệm **Boeing X-37** là một máy bay không gian không người lái của Hoa Kỳ. Tàu này do Không quân Hoa Kỳ vận hành và đã thực hiện chuyến bay vòng
thumb|right|[[Convair F-106 Delta Dart]] thumb|right|[[Convair 880]] thumb|right|Tên lửa phòng không [[RIM-2 Terrier trên boong tàu USS _Providence_]] thumb|right|Tên lửa Atlas đang phóng lên trong sứ mệnh [[Friendship 7, sứ mệnh bay đưa người lên quỹ
**Chương trình Mercury** là chương trình đưa người vào vũ trụ đầu tiên của Hoa Kỳ. Nó diễn ra từ năm 1959 đến năm 1963 với mục đích đặt con người lên quỹ đạo vòng
**PGM-17A Thor** là loại tên lửa đạn đạo đầu tiên được Không quân Mỹ đưa vào trang bị. Được đặt theo tên của Norse god of thunder, nó được triển khai trong biên chế của
**NK-33** và **NK-43** là những động cơ tên lửa được thiết kế và chế tạo bởi Viện thiết kế động cơ Kuznetsov vào cuối những năm 1960s, đầu những năm 1970s. NK là viết tắt
phải|nhỏ|Động cơ RD-170 được phát triển bởi NPO Energomash. **NPO Energomash** "V. P. Glushko" là một nhà sản xuất động cơ tên lửa lớn của Nga. Công ty chủ yếu phát triển và sản xuất
**Mars 2020** là một nhiệm vụ thăm dò Sao Hỏa bởi Chương trình thám hiểm Sao Hỏa của NASA với kế hoạch phóng vào tháng 7 năm 2020. **Mars 2020** được phóng từ Trái đất
**Origins, Spectral Interpretation, Resource Identification, Security, Regolith Explorer** (**OSIRIS-REx**) là một tàu không gian đang được NASA phóng vào vũ trụ, có nhiệm vụ thăm dò các tiểu hành tinh và mang những mẫu vật
**Antonov An-124 _Ruslan**_ (Tên hiệu NATO: **Condor**) là loại máy bay vận tải lớn nhất từng được sản xuất hàng loạt (trước chiếc Airbus A380),cho tới khi An-225 _Mriya_ xuất hiện,đây từng là chiếc máy
**Hermann Julius Oberth** (; 25 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 12 năm 1989) là một nhà vật lý và kỹ sư người Đức gốc Áo-Hung. Ông được coi là một trong những người
nhỏ|Phóng tàu vũ trụ [[Mariner 1, 1962]] **Chương trình Mariner** là chương trình vũ trụ thăm dò hành tinh khác được thực hiện bởi NASA. Giữa năm 1962 và cuối năm 1973, Phòng thí nghiệm
**Vệ tinh quan sát Einstein** (**HEAO-2**) là kính viễn vọng tia X được đưa vào không gian bởi NASA. Đây là kính thiên văn thứ hai trong ba Đài quan sát Thiên văn Năng lượng
thumb|Titan-II ICBM trong giếng phóng thử nghiệm, căn cứ không quân Vandenberg thumb|Khoang đầu đạn [[thâm nhập khí quyển|hồi quyển Mark 6 có chứa đầu đạn hạt nhân W-53, được sử dụng trên Titan II]]
Tên lửa **LGM-30 Minuteman** là loại tên lửa liên lục địa (ICBM) phóng từ giếng phóng trên đất liền của Mỹ. , phiên bản tên lửa **LGM-30G Minuteman III** là loại tên lửa duy nhất
**Chuyến bay 3591 của Atlas Air** là chuyến bay chở hàng nội địa theo lịch trình hoạt động cho Amazon Air từ sân bay quốc tế Miami đến sân bay liên lục địa George Bush
**Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ** hay **Cơ quan Hàng không và Không gian Hoa Kỳ**, tên đầy đủ tiếng Anh là **National Aeronautics and Space Administration**, viết tắt là **NASA**, là
**New Horizons** là phi thuyền thăm dò không gian tự động được cơ quan hàng không vũ trụ NASA phóng lên vũ trụ vào năm 2006. Đây cũng là phi thuyền đầu tiên của nhân
**Algérie** (, phiên âm: "An-giê-ri"; tiếng Ả Rập: الجزائر, , tiếng Berber (Tamazight): _Lz̦ayer_ , ), tên chính thức **Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Algérie**, là một nước tại Bắc Phi, và là nước
**Căn cứ Không quân Walker** là căn cứ bị đóng cửa của Không quân Mỹ nằm cách khu thương mại trung tâm Roswell, New Mexico ba dặm (5 km) về phía nam. Căn cứ này
thumb|[[Tàu con thoi Columbia đang được phóng lên.]] **Du hành không gian** hay **phi hành vũ trụ** là chuyến bay bằng cách phóng tên lửa đi vào không gian vũ trụ. Du hành không gian
**Apollo 8** (21–27 tháng 12 năm 1968) là tàu vũ trụ có người lái đầu tiên thoát khỏi phạm vi ảnh hưởng của lực hấp dẫn Trái Đất và là chuyến bay có phi hành
**Dassault Mirage F1** một máy bay tấn công và tiêm kích ưu thế trên không một chỗ ngồi được chế tạo bởi hãng Dassault Aviation của Pháp. Hơn 700 chiếc F1 đã được chế tạo.
**Boeing 747**, biệt danh **"Jumbo Jet"** hay nữ hoàng bầu trời **"Queens of the Skies**", là một trong những loại máy bay dễ nhận biết nhất trên toàn thế giới. Nó là máy bay thân
**Bồ Đào Nha** (tiếng Bồ Đào Nha: _Portugal_, ), quốc hiệu là **Cộng hòa Bồ Đào Nha** (, ) là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam của khu vực châu Âu, trên bán
Tháp nước Mannheim, biểu tượng của thành phố **Mannheim**, với dân số vào khoảng 320.000 người, là thành phố lớn thứ hai của bang Baden-Württemberg sau Stuttgart, nằm ở phía Tây nước Cộng hòa Liên
**Săn tiền kiểu Mỹ** (tựa gốc tiếng Anh: **_American Hustle_**) là một bộ phim hài - tội phạm của Điện ảnh Mỹ phát hành năm 2013 do David O. Russell đạo diễn, với kịch bản
thumb|alt=montage of four birds|[[Lớp Chim được xếp vào nhóm Dinosauria theo hệ thống phân loại sinh học áp dụng phương pháp phát sinh chủng loại.]] **Khủng long** là một nhóm bò sát thuộc nhánh **Dinosauria**,
, trước đây gọi là (石 川島 播 磨 重工業 株式会社 , _Ishikawajima Harima Jūkōgyō Kabushiki-gaisha_), là một công ty Nhật Bản chuyên sản xuất tàu, động cơ máy bay, bộ
**_Mariner 10_** là một tàu thăm dò không gian không người lái của Mỹ do NASA phóng vào ngày 3 tháng 11 năm 1973, bay ngang qua Sao Thủy và Sao Kim. _Mariner 10_ được
**Direct Action Everywhere** () viết tắt là **DxE**, là một mạng lưới cơ sở quốc tế của các nhà hoạt động vì quyền động vật được thành lập vào năm 2013 tại Khu vực Vịnh