✨Algérie

Algérie

Algérie (, phiên âm: "An-giê-ri"; tiếng Ả Rập: الجزائر, , tiếng Berber (Tamazight): Lz̦ayer , ), tên chính thức Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Algérie, là một nước tại Bắc Phi, và là nước lớn nhất trên lục địa Châu Phi (Sudan lớn hơn nhưng đã chia làm 2 nước Sudan và Nam Sudan). Nước này có chung biên giới với Tunisia ở phía đông bắc, Libya ở phía đông, Niger phía đông nam, Mali và Mauritanie phía tây nam, và Maroc cũng như một vài kilômét lãnh thổ phụ thuộc, Tây Sahara, ở phía tây. Theo hiến pháp, nước này được xác định là một quốc gia Hồi giáo, Ả Rập và Amazigh (Berber). Algiers là thủ đô và là thành phố lớn nhất nước này.

Tên gọi "Algérie" xuất phát từ tên thành phố Algiers, và chính thức từ al-jazā'ir trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là "những hòn đảo", để chỉ bốn hòn đảo nằm ngoài khơi thành phố này trước khi chúng trở thành một phần lục địa năm 1525.

Sách tiếng Việt cuối thế kỷ 19 còn gọi xứ này bằng tên A Lợi Tư.

Địa lý

Các tỉnh của Algérie. trái|Dãy núi [[Núi Ahaggar Mountains|Hoggar]]

Algérie nằm ở Bắc Phi, Bắc giáp Địa Trung Hải, Nam giáp Niger, Mali, Mauritanie, Đông giáp Tunisia và Libya, Tây giáp Maroc. Lãnh thổ được chia thành ba vùng địa lý tự nhiên nối tiếp nhau từ Bắc đến Nam:

  • Những đồng bằng nhỏ hẹp ven biển không liên tục, xen kẽ với vùng đồi núi Atlas Tell, thích hợp cho việc phát triển lúa mì và các loại cây cận nhiệt đới.
  • Phía nam dãy Atlas Tell là những cao nguyên rộng lớn rải rác những hồ mặn, một khu vực thuận lợi cho việc chăn nuôi cừu, trồng ô liu.
  • Vùng phía nam là bộ phận của sa mạc Sahara chiếm 80% diện tích đất nước, nơi có tiềm năng khổng lồ về dầu mỏ, khí đốt và nhiều khoáng sản giá trị khác.

Đa phần vùng bờ biển có nhiều đồi, thỉnh thoảng thậm chí là các dãy núi, và có ít bến cảng tốt. Vùng ngay phía nam bờ biển, được gọi là Tell, khá màu mỡ. Xa hơn nữa về phía nam là dãy núi Atlas và sa mạc Sahara. Algiers, Oran và Constantine là các thành phố lớn.

Khí hâu Algérie khô cằn và nóng, dù khí hậu vùng bờ biển khá dễ chịu, mùa đông tại các vùng núi có thể rất khắc nghiệt. Algérie có nhiều gió nóng ẩm, một loại gió nóng mang theo bụi và cát đặc biệt thường xảy ra vào mùa hè, trong khi việc quốc hữu hóa đất đai đã khiến nhiều người dân trở thành vô gia cư. Tuy nhiên, dân số vẫn tăng đều đặn.

Năm 1954, Mặt trận Giải phóng Quốc gia (có lúc gọi là Mặt trận giải phóng Dân tộc Algérie (FLN) bắt đầu một cuộc chiến tranh giành độc lập cho Algérie. Từ năm 1954 đến năm 1962, FLN tiến hành chiến tranh chống Pháp để giành độc lập, mặc dù FLN thua trận nhưng Tướng De Gaulle lúc đó là tổng thống Pháp đã trao trả độc lập cho Algeria vì ông không muốn Algeria vẫn thuộc Pháp.. Đa phần trong số 1.025.000 người "chân đen", cũng như 91.000 người "harki" (người Hồi giáo Algérie ủng hộ Pháp trong quân đội Pháp), chiếm khoảng 10% dân số Algérie năm 1962, đã di cư sang Pháp trong vài tháng giữa năm đó.

Tổng thống đầu tiên của Algérie, người lãnh đạo Mặt trận Giải phóng Quốc gia Ahmed Ben Bella, bị cựu đồng minh cũ và là bộ trưởng quốc phòng Houari Boumédiènne lật đổ năm 1965. Dưới thời Ben Bella chính phủ đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và chiều hướng này tiếp tục kéo dài tới thời chính phủ Boumedienne; tuy vậy, Boumedienne tiếp tục dựa nhiều vào quân đội, giảm bớt vai trò của Đảng cầm quyền duy nhất chỉ còn mang tính tượng trưng. Nông nghiệp được hợp tác hoá, và một phong trào công nghiệp hóa rộng rãi được triển khai. Các cơ sở khai thác dầu khí được tư nhân hóa giúp tăng tài sản quốc gia, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nhưng nền kinh tế Algérie dần trở nên phụ thuộc vào dầu mỏ, khiến nó gặp khó khăn khi giá dầu thế giới giảm mạnh trong thập kỷ 1980. Trong chính sách đối ngoại Algérie là một thành viên và lãnh đạo của phong trào các quốc gia "không liên kết". Sự tranh giành Tây Sahara với Maroc hầu như đã đưa hai nước tới bờ vực chiến tranh. Bất đồng chính trị ít được nhân nhượng và sự kiểm soát của nhà nước đối với phương tiện truyền thông cũng như việc đặt các Đảng chính trị không phải Phong trào Giải phóng Quốc gia ra ngoài vòng pháp luật được thể chế hóa theo hiến pháp hà khắc năm 1976. Boumédienne chết năm 1978, nhưng thời cầm quyền của người kế vị, Chadli Bendjedid, cũng không mang lại nhiều cải cách hơn. Nhà nước mang nặng tính quan liêu và tham nhũng tràn lan.

Hiện đại hóa đã mang lại những thay đổi lớn trong nhân khẩu Algérie. Các truyền thống làng xã trải qua những thay đổi lớn cùng với sự tăng lên của quá trình đô thị hoá, các ngành công nghiệp mới xuất hiện, nông nghiệp bị thu hẹp ai trò, và giáo dục, vốn không phát triển ở thời thuộc địa, đã được mở rộng ra khắp đất nước, nâng tỷ lệ biết chữ từ chưa tới 10% thành hơn 60%. Những cải thiện trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe gây ra sự tăng trưởng rất cao ở tỷ lệ sinh (7-8 trẻ trên mỗi phụ nữ) gây ra hai hậu quả: một dân số rất trẻ và sự khủng hoảng chỗ ở. Thế hệ mới đấu tranh để liên hệ với nỗi ám ảnh văn hóa những năm chiến tranh và hai phong trào phản kháng bắt đầu phát triển: những người cánh tả, gồm các phong trào của người Berber, và những người bảo vệ Hồi giáo. Cả hai đều chống lại sự cầm quyền độc Đảng nhưng cũng xung đột với nhau cả trong các trường đại học và trên đường phố trong thập kỷ 1980. Những cuộc tuần hành đông đảo của hai phe trong mùa thu năm 1988 buộc Benjedid phải chấm dứt chế độ cầm quyền một Đảng và cuộc bầu cử tự do được tuyên bố diễn ra năm 1991.

Tháng 12 năm 1991, Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo thắng lợi tại vòng một cuộc bầu cử đa Đảng đầu tiên của nước này. Quân đội sau đó đã hủy bỏ vòng hai, buộc tổng thống khi ấy là Bendjedid từ chức và cấm Mặt trận Bảo vệ Hồi giáo. Những cuộc xung đột tiếp sau nhận chìm Algérie vào vòng bạo lực với cuộc Nội chiến Algérie. Hơn 100.000 người đã thiệt mạng, thường là trong những cuộc thảm sát dân thường vô có. Câu hỏi về người chịu trách nhiệm cho những cuộc thảm sát đó vẫn gây tranh cãi trong những nhà quan sát trong quốc hội; nhiều vụ bị gán cho các Nhóm vũ trang Hồi giáo. Sau năm 1998, cuộc chiến tranh gần tàn lụi và tới năm 2002 các nhóm du kích chính hoặc đã bị tiêu diệt hoặc đầu hàng đưa lại cơ hội cho một chương trình ân xá quốc gia, dù những cuộc xung đột lẻ tẻ vẫn diễn ra ở một số vùng. Các cuộc bầu cử được tiến hành lại năm 1995, và vào ngày 27 tháng 4 năm 1999, sau thời kỳ cầm quyền ngắn của một loạt tướng lĩnh quân đội, Abdelaziz Bouteflika được bầu làm tổng thống. Vấn đề bản sắc và ngôn ngữ Berber ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt sau cuộc phản kháng Kabyle đông đảo năm 2001 và cuộc tẩy chay hầu như hoàn toàn cuộc tuyển cử tại Kabylie; chính phủ nhượng bộ và coi Tamazight (tiếng Berber) là ngôn ngữ quốc gia sử dụng trong các trường học.

Đa phần các lĩnh vực Algérie hiện đã phục hồi, phát triển trở thành một nền kinh tế đang nổi. Giá dầu mỏ và khí gas cao là nhân tố giúp chính phủ cải thiện cơ sở hạ tầng đất nước và đặc biệt cải thiện công nghiệp và nông nghiệp. Những khoản đầu tư nước ngoài vào Algérie đã gia tăng gần đây.

Giáo dục

Giáo dục ở Algérie là bắt buộc và miễn phí 9 năm (bắt đầu từ năm 6 tuổi). Học sinh được giảng dạy chủ yếu bằng tiếng Ả Rập (trước đây là tiếng Pháp). Algérie có một số trường đại học ở các thành phố lớn Alger, Oran và Qacentina (Constantine).

Cơ cấu hệ thống trường

; Căn bản Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Retared, Trường cơ sở

Thời gian chương trình: 9 năm

Độ tuổi: 6 tới 15 tuổi

Chứng nhận/bằng được cấp: Bằng giáo dục cơ sở

; Trung học phổ thông Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Trung học phổ thông, trung học đa ngành

Thời gian chương trình: 3 năm

Độ tuổi: 15 tới 18

Chứng nhận/bằng được cấp: Bằng trung học phổ thông

; Trung học kỹ thuật Kiểu trường cung cấp dịch vụ giáo dục này: Trung học kỹ thuật

Thời gian chương trình: 3 năm

Chứng nhận/bằng được cấp: Tú tài kỹ thuật

Chính trị

Thể chế

Cộng hòa Tổng thống, dân chủ đa nguyên. Tổng thống được lựa chọn thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ của Tổng thống là 5 năm. Hiến pháp sửa đổi vào tháng 11 năm 2008 huỷ bỏ giới hạn mỗi người chỉ được 2 nhiệm kỳ Tổng thống liên tiếp. Tổng thống có quyền cao nhất, đứng đầu lực lượng vũ trang, chỉ định Thủ tướng và xét duyệt thành phần các bộ trưởng trong Chính phủ, giải tán Hạ viện (nếu cần), tổ chức bầu cử sớm, trưng cầu dân ý...

Cơ quan lập pháp

Gồm 2 Viện: Hội đồng Dân tộc (Thượng viện) và Đại hội đồng nhân dân (Hạ viện). Hạ viện có 389 ghế, đại biểu được bầu qua phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Thượng viện có 144 ghế, 1/3 số đại biểu do Tổng thống chỉ định, 2/3 do bầu gián tiếp thông qua đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, tỉnh, nhiệm kỳ 6 năm, hiến pháp quy định cứ 3 năm phải bầu lại ½ số đại biểu Thượng viện. Cơ quan lập pháp làm luật, thông qua ngân sách, luật tài chính và kiểm soát hoạt động của Chính phủ.

Đảng phái chính trị

Mặt trận giải phóng dân tộc (FLN-Đảng cầm quyền), Tập hợp quốc gia dân chủ (RND), Phong trào xã hội vì hòa bình (MSP), Tập hợp vì văn hóa và dân chủ (RCD), Phong trào cải cách quốc gia (MRN), Mặt trận các lực lượng xã hội (FFS), Đảng lao động (PT), Mặt trận quốc gia Algérie (FNA).

Trong suốt thập niên 1960, Algérie đã ủng hộ nhiều phong trào độc lập vùng Hạ Sahara tại châu Phi, nước này là một lãnh đạo Phong trào không liên kết. Trong khi cùng có nhiều di sản lịch sử và văn hóa chung với Maroc, hai nước lại có quan hệ thù địch với nhau kể từ khi Algérie giành lại độc lập. Điều này xuất phát từ hai nguyên nhân: những vùng đất tranh chấp tại tây Algéria của Maroc (dẫn tới Chiến tranh Sand năm 1963), và việc Algérie ủng hộ Polisario, một nhóm vũ trang của người tị nạn Sahrawi đang tìm cách đòi độc lập cho vùng Tây Sahara thuộc quyền quản lý của Maroc, bên trong biên giới nước này tại thành phố Tindouf. Căng thẳng giữa Algérie và Maroc, cũng như các vấn đề liên quan tới cuộc Nội chiến Algérie, đã đặt ra nhiều vật cản trên con đường củng cố Liên đoàn Maghreb Ả Rập, trên danh nghĩa được thành lập năm 1989 nhưng ít có vai trò thực tiễn, với các nước láng giềng dọc bờ biển.

Đối ngoại

Algérie là thành viên của Liên Hợp Quốc (UN), Liên minh châu Phi (AU), Phong trào không liên kết (NAM), Liên đoàn Ả Rập (ACL), Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Tổ chức các nước Ả Rập xuất khẩu dầu mỏ (OAPEC), Khối Maghreb (UMA)...vv.

Khu vực hành chính

Kinh tế

Kinh tế Algérie gặp nhiều khó khăn, dân số tăng cao làm cho tình hình trở nên trầm trọng hơn. Cơ cấu nông nghiệp bị xáo trộn do chính sách tập thể hóa (1971) và tư nhân hóa (1990). Sản lượng lương thực không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước, phải nhập khẩu thực phẩm. Việc lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp nặng đã để lộ ra những nhược điểm tai hại: các sản phẩm của ngành công nghiệp luyện kim và công nghiệp hóa học không phù hợp với nhu cầu nội địa và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn. Lợi nhuận thu được từ xuất khẩu dầu mỏ và khí đốt đã làm giảm bớt những tác động của khủng hoảng.

Lĩnh vực năng lượng hóa thạch là xương sống của nền kinh tế, chiếm khoảng 60% thu ngân sách, 30% GDP, và hơn 95% thu nhập xuất khẩu. Nước này xếp hạng 14 về trữ lượng dầu khí, với 11.8 tỷ thùng trữ lượng đã được chứng minh và ước tính số thực có thể vượt mức trên. Cơ quan Thông tin Năng lượng đã thông báo rằng năm 2005, Algérie có 160 tỷ feet khối (Tcf) trữ lượng khí tự nhiên đã được khảo sát, đứng hàng thứ 8 thế giới.

Các chỉ số tài chính và kinh tế Algérie đã được cải thiện ở giữa thập niên 1990, một phần nhờ chính sách cải cách được Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hỗ trợ và việc tái cơ cấu nợ của Câu lạc bộ Paris. Tình hình tài chính Algérie trong năm 2000 và 2001 có bước cải thiện nhờ giá dầu tăng và chính sách thuế chặt chẽ của chính phủ, dẫn tới tăng trưởng mạnh thặng dư thương mại, và đạt mức cao kỷ lục về dự trữ ngoại tệ, giảm mạnh nợ nước ngoài. Những nỗ lực tiếp theo của chính phủ nhằm đa dạng hóa nền kinh tế bằng cách thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài ra các lĩnh vực khác ngoài dầu khí mang lại ít thành công về mặt giảm mức độ thất nghiệp cao và cải thiện tiêu chuẩn sống. Năm 2001, chính phủ đã ký kết một thỏa ước liên hiệp với Liên minh châu Âu cho phép hạ thấp các mức thuế và tăng cường thương mại giữa hai bên. Tháng 3 năm 2006, Nga đã đồng ý xoá 4.74 tỷ dollar nợ của Algérie với Liên bang Xô viết cũ sau chuyến thăm viếng của Tổng thống Vladimir Putin tới nước này, lần đầu tiên của một nhà lãnh đạo Nga sau nửa thế kỷ. Đổi lại, tổng thống Abdelaziz Bouteflika đồng ý mua số máy bay chiến đấu, các hệ thống phòng không và các loại vũ khí khác của Nga trị giá 7.5 tỷ dollar, theo công ty xuất khẩu vũ khí nhà nước Nga Rosoboronexport.

Năm 2006 Algérie cũng đá quyết định trả hết toàn bộ số nợ 8 tỷ dollar cho Câu lạc bộ Paris trước thời hạn. Điều này giúp giảm số nợ của Algérie xuống còn chưa tới 5 tỷ dollar vào cuối năm 2006. Câu lạc bộ Paris cho rằng động thái này phản ánh sự hồi phục kinh tế Algérie trong những năm gần đây. Nhờ nguồn tài nguyên dầu mỏ và khí gas phong phú, họ được lợi nhờ tăng giá năng lương.

Nhân khẩu

nhỏ|Bờ biển [[Algiers]]

Dân số

Dân số hiện tại của Algérie là 43.378.027 người (ước tính tháng 7 năm 2019).

Về mặt chính trị, vấn đề ngôn ngữ khá nhạy cảm, đặc biệt đối với cộng đồng thiểu số Berber, vốn đã trở nên yếu thế sau khi quốc gia chấp nhận Ả Rập hoá. Chính sách ngôn ngữ và sự Ả Rập hóa một phần là sự phản ứng trước sự thực rằng 130 năm thuộc địa hoá của Pháp đã để lại cho đất nước cả nền hành chính và giáo dục bậc cao đều hoàn toàn bằng tiếng Pháp, cũng như sự thúc đẩy của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập do nhiều chính phủ liên tiếp tại Algérie tiến hành.

Tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ được học nhiều nhất trong số các ngoại ngữ, và được sử dụng rộng rãi (vượt xa ngoại ngữ thứ hai là tiếng Anh), nhưng hiếm khi được coi là tiếng mẹ đẻ. Từ khi giành độc lập, chính phủ đã theo đuổi một chính sách Ả Rập hóa ngôn ngữ giáo dục và hành chính, đã mang lại một số thành công, dù nhiều giáo trình đại học vẫn được giảng dạy bằng tiếng Pháp.

Tôn giáo

Hồi giáo là tôn giáo chiếm ưu thế với 99% dân số tin theo. Hầu như tất cả người Hồi giáo Algérie đều thuộc Hồi giáo Sunni, và một cộng đồng nhỏ 200.000 người theo giáo phái Ibadis trong thung lũng M'zab của Ghardaia.

Ước tính có khoảng 10.000 tín hữu Kitô giáo tại Algérie vào năm 2008. Sau cuộc cách mạng dẫn đến sự độc lập của Algérie, có tất cả 6500 trong tổng số 140.000 người Do Thái của nước này rời khỏi đất nước, trong đó khoảng 90% chuyển sang Pháp và 10% chuyển đến Israel.

Văn hoá

nhỏ|[[Thánh đường Hồi giáo tại Algiers]] Văn học hiện đại Algérie, bị phân chia giữa Ả Rập và Pháp, bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi lịch sử gần đây của đất nước. Các nhà văn nổi tiếng thế kỷ XX gồm Mohammed Dib, Albert Camus và Kateb Yacine, còn Assia Djebar là nhà văn có số lượng tác phẩm được dịch khá lớn. Những nhà văn nổi bật thập niên 1980 gồm Rachid Mimouni, sau này là phó chủ tịch tổ chức Ân xá Quốc tế, và Tahar Djaout, bị một nhóm Hồi giáo giết hại năm 1993 vì các quan điểm thế tục của ông. Ngay từ thời La Mã, Apuleius, sinh tại Mdaourouch, đã có tư tưởng về một quốc gia Algérie.

Trong triết học và nhân loại học, Malek Bennabi và Frantz Fanon được chú ý về các tư tưởng của họ với quá trình giải thực, trong khi Augustine thành Hippo sinh tại Tagaste (khoảng 60 dặm từ thành phố Annaba hiện nay), và Ibn Khaldun, dù sinh tại Tunis, đã viết ra Muqaddima khi đang sống ở Algérie.

Văn hoá Algérie đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Hồi giáo, tôn giáo chính của quốc gia này. Các tác phẩm của gia đình Sanusi thời tiền thuộc địa và của Emir Abdelkader và Sheikh Ben Badis thời thuộc địa, rất đáng chú ý.

Thể loại âm nhạc Algérie nổi tiếng nhất trên thế giới là raï, một loại nhạc có khuynh hướng pop, dựa trên âm nhạc dân gian, được các ngôi sao quốc tế như Khaled và Cheb Mami thể hiện. Tuy nhiên, tại chính Algérie kiểu âm nhạc cổ điển hơn, biểu diễn rõ từng chữ là chaabi lại phổ biến hơn, với các ngôi sao như El Hadj El Anka hay Dahmane El Harrachi, trong khi thể loại âm nhạc có các giai điệu du dương Kabyle, được Idir, Ait Menguellet, hay Lounès Matoub biểu diễn, thu hút được rất đông thính giả. Về các thị hiếu âm nhạc cổ điển hơn, âm nhạc cổ điển Andalusia, do những người tị nạn Morisco từ Al-Andalus đưa tới, vẫn được gìn giữ trong nhiều thị trấn cổ ven biển.

Trong lĩnh vực hội họa, Mohammed Khadda và M'Hamed Issiakhem là hai khuôn mặt đáng chú ý trong những năm gần đây.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Algérie** (, phiên âm: "An-giê-ri"; tiếng Ả Rập: الجزائر, , tiếng Berber (Tamazight): _Lz̦ayer_ , ), tên chính thức **Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Algérie**, là một nước tại Bắc Phi, và là nước
**Chiến tranh Algérie** hay còn được gọi là **Chiến tranh giành độc lập Algérie** hoặc là **Cách mạng Algérie** ( _Ath-Thawra Al-Jazā'iriyya_; , "Chiến tranh Algérie") là một cuộc chiến tranh giữa Pháp và các
**Lịch sử Algérie** diễn ra ở đồng bằng ven biển màu mỡ của Bắc Phi, mà thường được gọi là Maghreb (hoặc Maghreb). Bắc Phi từng là một khu vực quá cảnh đối với những
**Quan hệ Algérie-Việt Nam** là quan hệ song phương giữa Algérie và Việt Nam. Hai nước thiết lập quan hệ vào năm 1962, mặc dù mối quan hệ giữa Algérie và Việt Nam đã được
**Lực lượng Vũ trang Nhân dân Quốc gia Algérie** (Armée nationale populaire) là lực lượng quân đội của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Algérie, và là kế tục viên của Lực lượng Giải phóng
phải|nhỏ|300x300px|Nhân khẩu học của Algérie, Dữ liệu của [[FAO, năm 2005; Số lượng cư dân trong hàng ngàn.]] nhỏ|Vị trí [[Algérie]] **Nhân khẩu Algérie** đặc trưng của dân số của Algérie, trong đó có mật
**Con dấu quốc gia Algérie** () là con dấu được sử dụng bởi các chính phủ, như các tiểu bang khác sử dụng phù hiệu áo giáp. ## Mô tả Hình thức hiện tại của
**Quốc hội Nhân dân Algérie** (_al-Majlis al-Sha'abi al-Watani_), viết tắt APN, là hạ viện của Nghị viện Algeria. Viện gồm 462 thành viên được bầu trực tiếp bởi cử tri. Gồm 462 ghế, 8 trong
**Air Algérie** là hãng hàng không quốc gia của Algérie. Hãng này đóng tại Algiers, đây là hãng hàng không lớn thứ ba ở châu Phi (sau các hãng South African Airways và Egyptair), vận
Bản đồ cứu trợ bóng mờ của Algérie với các khu định cư và đường bộ Algérie có diện tích 2.381.741 km² với hơn 4/5 lãnh thổ là sa mạc, nước này nằm ở Bắc Phi,
**Algérie thuộc Ottoman** () là một quốc gia chư hầu của Đế quốc Ottoman ở Bắc Phi kéo dài 1515-1830, khi nó được chinh phục bởi người Pháp. Nằm giữa vương quốc Tunisia ở phía
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie** (; ) là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Algérie và đại diện cho Algérie trên bình diện quốc tế. Algérie là một trong những đội bóng
**Đội tuyển Davis Cup Algérie** đại diện Algérie ở giải đấu quần vợt Davis Cup và được quản lý bởi Liên đoàn quần vợt Algérie. Algérie hiện tại thi đấu ở Nhóm II khu vực
**Tổng thống Algérie** là nguyên thủ quốc gia và đứng đầu hành pháp Algérie, đồng thời là tổng tư lệnh của Lực lượng vũ trang Quốc gia Nhân dân Algérie. ## Lịch sử Cương lĩnh
## Định dạng cuộc gọi Để gọi ở Algérie, định dạng sau được sử dụng: * **0 MÃ-KHU-VỰC xx xx xx** Gọi trong một mã vùng 'Mã vùng là một số có 2 chữ số
**Vụ rơi máy bay Il-76 Không quân Algérie** xảy ra vào lúc 8h giờ địa phương (14h giờ Việt Nam) khi chiếc máy bay của Không quân Algérie đang chở nhiều binh sĩ và thiết
**Danh sách Thủ tướng Chính phủ của Algérie** kể từ khi hình thành Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Algérie (GPRA) lưu vong tại Cairo, Ai Cập vào năm 1958 trong chiến tranh Algérie, độc
**Algérie** lần đầu tiên tham dự Thế vận hội vào năm 1964, và từ đó tới nay tham gia liên tục các Thế vận hội Mùa hè, trừ kỳ Thế vận hội Mùa hè năm
**Chuyến bay 5017 của Air Algérie** là một chuyến bay thường lệ quốc tế vận chuyển khách bằng máy bay McDonnell Douglas MD-80 của Air Algérie bay từ Ouagadougou đến Algiers ngày 24/7/2014. Hãng đã
**Dinar Algérie** (, tiếng Berber: **_Dinar_** hoặc **_Menkuc_**, Tiếng Pháp **_Dinar_**; ký hiệu: **DA**; mã: **DZD**) là tiền tệ của Algérie và nó được chia thành 100 centimes. Centimes hiện đã lỗi thời do giá
**Algérie thuộc Pháp** ( tới 1839, sau đó sau đó; không chính thức còn được gọi là **Thuộc địa Algérie**, bắt đầu vào năm 1830 với sự xâm lược Algérie và kéo dài cho đến
Đây là danh sách các thành phố và thị xã trên 100.000 dân, thị trấn và làng mạc trên 20.000 dân ở Algérie. Xem thêm Danh sách mã thư tín các thành phố Algérie. nhỏ|Bản
**Đội tuyển Fed Cup Algérie** đại diện Algérie ở giải đấu quần vợt Fed Cup và được quản lý bởi Liên đoàn Quần vợt Algérie. Đội hiện tại thi đấu ở Nhóm III khu vực
phải|nhỏ|240x240px|Hiệu kỳ Tổng thống Algeria **Danh sách nguyên thủ quốc gia của Algérie** kể từ khi hình thành Chính quyền Lâm thời Cộng hòa Algeria (GPRA) lưu vong tại Cairo, Ai Cập năm 1958 trong
**Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Algérie** là đội bóng đại diện cho Algérie tại các cuộc thi tranh giải và trận đấu giao hữu bóng chuyền ở phạm vi quốc tế.
**Đội tuyển bóng đá bãi biển quốc gia Algérie** đại diện Algérie ở các giải thi đấu bóng đá bãi biển quốc tế và được điều hành bởi Hiệp hội bóng đá Algérie, cơ quan
**Hiến pháp Algérie** lần đầu tiên được thông qua bởi một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1963, sau Chiến tranh Độc lập Algérie (1954 Phản62); ban đầu, nó đã được soạn thảo bởi
Chính phủ Algérie cho phép công dân của một số quốc gia và vùng lãnh thổ đến Algérie mà không cần xin thị thực. Tất cả du khách phải sở hữu hộ chiếu có hiệu
**Bầu cử tổng thống Algérie 2024** () dự kiến sẽ được tổ chức vào ngày 7 tháng 9 năm 2024 tại Algérie.
## Câu lạc bộ _Về danh sách đầy đủ các câu lạc bộ bóng đá Algérie, xem :Thể loại:Câu lạc bộ bóng đá Algérie_. Ở Algérie, có hơn 1.000 câu lạc bộ bóng đá, đây
**Liên đoàn bóng đá Algérie** (, ) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Algérie. Liên đoàn quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia nam và nữ, tổ
**Constantine** ( __, ), cũng viết là _Qacentina_ hay _Kasantina_, là tỉnh lỵ của tỉnh Constantine mạn đông bắc Algérie. Vào thời La Mã nó có tên Cirta và đặt tên lại thành "Constantina" để
**Vụ rơi máy bay Lockheed C-130 Hercules** xảy ra ở Algérie ngày 11 tháng 2 năm 2014 khi một chiếc máy bay của Không quân Algeria bị rơi gần Aïn Kercha, tỉnh Oum El Bouaghi,
**Thủ tướng Algérie** là người đứng đầu chính phủ của Algérie. Chức vụ do Tổng thống Algérie bổ nhiệm, cùng các Bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ do tân Thủ tướng
**Cúp bóng đá nữ Algérie** () là giải đấu cúp bóng đá nữ tại Algérie. Giải đấu được thành lập năm 1998, tương đương với Cúp bóng đá Algérie của nam. Đội vô địch năm
**Algérie** tham dự Thế vận hội Mùa hè 2008 tại Bắc Kinh từ ngày 8 đến 24 tháng 8 năm 2008. ## Huy chương ## Tập tin:Athletics pictogram.svg Điền kinh ### Nam ### Nữ
**Trèo cây Algérie**, tên khoa học **_Sitta ledanti_**, là một loài chim trong họ Sittidae. Chúng là loài đặc hữu của Algérie.
Cuộc bầu cử Hội đồng Dân tộc được tổ chức tại Algérie vào ngày 5 tháng 2 năm 2022 nhằm thay đổi một nửa số nghị sĩ thượng viện của quốc hội. ## Kết quả
Cuộc bầu cử quốc hội bất thường được tổ chức tại Algérie vào ngày 12 tháng 6 năm 2021 để bầu ra tất cả 407 nghị sĩ Quốc hội Nhân dân. Ban đầu dự kiến
**Nghị viện Algérie** gồm 2 viện: * **Hội đồng Dân tộc** (thượng viện) * **Đại Hội đồng Nhân dân Algérie** (hạ viện)
**Ali Amiri** (sinh ngày 23 tháng 10 năm 1987) là một cầu thủ bóng đá người Algérie thi đấu cho US Biskra ở vị trí tiền vệ.
**Danh sách các sân bay Algérie**, xếp theo địa điểm.
**Bouda** là một đô thị thuộc tỉnh Adrar, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 8.668 người.
**Youssoufia** là một đô thị thuộc tỉnh Tissemsilt, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 2.04 người.
**Dahra** là một đô thị thuộc tỉnh Chlef, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 21.284 người.
**Mediouna** là một đô thị thuộc tỉnh Relizane, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 28.733 người.
**Mansoura** là một đô thị thuộc tỉnh Bordj Bou Arréridj, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 19.979 người.
**Magra** là một đô thị thuộc tỉnh Msila, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 31.749 người.
**Hussein Dey** là một đô thị thuộc tỉnh Alger, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 49.921 người.
**Heliopolis** là một đô thị thuộc tỉnh Guelma, Algérie. Dân số thời điểm năm 2002 là 22.605 người.