thumb|Khoảng 2 L nhiên liệu RP-1
RP-1 (hay Rocket Propellant-1 hoặc Refined Petroleum-1) là một loại nhiên liệu tinh chế từ kerosene (gần giống như nhiên liệu phản lực) được sử dụng là nhiên liệu tên lửa. RP-1 cung cấp xung lực đẩy riêng thấp hơn Hydro lỏng (LH2), nhưng nó rẻ hơn, ổn định trong nhiệt độ phòng, và có tính nhạy nổ thấp hơn. RP-1 có mật độ cao hơn nhiều so với Hydro lỏng LH2, khiến cho nó có mật độ năng lượng lớn hơn (mặc dù năng lượng riêng của nó thấp hơn). RP-1 cũng là một chất độc hại và có tính gây ung thư giống như hydrazine, một nhiên liệu khác cũng ở dạng lỏng ở nhiệt độ phòng.
Lịch sử ra đời
thumb|Tên lửa [[Saturn V trong sứ mệnhApollo 8, mang theo 810.700 lit nhiên liệu RP-1; 1.311.100 lít chất oxy hóa Oxy lỏng]]
RP-1 là loại nhiên liệu được sử dụng trong tầng đẩy phụ trợ của tên lửa Soyuz, tên lửa Zenit, Delta I-III, dòng tên lửa đẩy Atlas, tên lửa Falcon, tên lửa Antares, và tên lửa Tronador. RP-1 cũng là loại nhiên liệu được sử dụng trong tầng đẩy đầu tiên của tên lửa Energia, Titan I, Saturn I và IB, và Saturn V. Cơ quan Tổ chức nghiên cứu không gian Ấn Độ (ISRO) cũng phát triển động cơ sử dụng RP-1 cho các tên lửa trong tương lai của Ấn Độ.
Phát triển
Trong và ngay sau Thế chiến II, rượu (chủ yếu là ethanol, đôi khi là methanol) đã được sử dụng làm nhiên liệu cho các động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng. Đặc tính nhiệt bay hơi cao của nhiên liệu giúp cho bộ phận làm mát tuần hoàn của động cơ không bị nóng chảy, đặc biệt là đối với các loại cồn chỉ chứa vài phần trăm nước. Người ta nhận ra rằng các nhiên liệu gốc hydrocarbon sẽ giúp tăng hiệu suất của động cơ, do có mật độ cao hơn một chút.
Nhiều loại tên lửa sử dụng nhiên liệu là kerosene, nhưng do thời gian đốt nhiên liệu, hiệu suất đốt nhiên liệu và áp suất buồng đốt tăng lên, khối lượng động cơ giảm xuống, dẫn đến nhiệt độ động cơ không thể kiểm soát được. Dầu hỏa thô được sử dụng làm chất làm mát có xu hướng phân ly (hóa học) và trùng hợp hóa. Các sản phẩm phản ứng nhẹ dưới dạng bọt khí gây ra hiện tượng rỗ bọt khí, trong khi các sản phẩm phản ứng nặng hơn ở dạng cặn sáp làm tắc các đường dẫn làm mát của động cơ. Kết quả là làm tăng nhiệt độ trong động cơ, làm đẩy mạnh thêm phản ứng trùng hợp làm tăng tốc độ phân hủy, gây ra vỡ thành động cơ hoặc các lỗi cơ học khác. Giữa những năm 1950, các nhà thiết kế tên lửa đã nhờ đến các kỹ sư hóa học để tạo ra một loại hydrocarbon chịu nhiệt, kết quả là RP-1 ra đời.
Trong những năm 1950, LOX (oxy lỏng) đã trở thành chất oxy hóa được ưu tiên sử dụng với nhiên liệu RP-1 mặc dù các chất oxy hóa khác cũng đã được sử dụng.
Công thức
Điều đầu tiên, các hợp chất chứa sulfur bị loại bỏ ra khỏi nhiên liệu hóa thạch nhờ quá trình Hydrodesulfurization. Ở nhiệt độ cao, lưu huỳnh và các hợp chất chứa lưu huỳnh tấn công kim loại. Ngoài ra ngay cả một lượng nhỏ lưu huỳnh cũng làm tăng phản ứng trùng hợp.
Anken và chất thơm được giữ ở hàm lượng rất thấp. Các hydrocarbon không no này có xu hướng trùng hợp không chỉ ở nhiệt độ cao mà còn trong thời gian dài bảo quản. Do không có các hydrocarbon nhẹ, RP-1 có điểm cháy cao và ít xảy ra cháy nổ nguy hiểm hơn so với xăng, nhiên liệu phản lực và diesel.
RP-1 được sản xuất từ dầu mỏ có nguồn gốc chất lượng cao, điều này làm gia tăng giá thành của RP-1. Các thông số kỹ thuật của RP-1 được ghi lại trong MIL-R-25576, các tính chất hóa-lý của RP-1 được mô tả trong NISTIR 6646.
Nhiên liệu kerosene được sử dụng trong tên lửa Liên Xô rất giống với RP-1 và được định danh là T-1 và RG-1. Mật độ của nó cao hơn 0,82 đến 0,85 g/ml, so với RP-1 là 0,81 g/ml. Liên Xô đã tổng hợp được loại kerosene có mật độ cao hơn bằng cách hạ thấp nhiệt độ kerosene. Phiên bản cuối cùng của tên lửa Falcon 9-"Falcon 9 Full Thrust", cũng có khả năng hạ thấp nhiệt độ của nhiên liệu RP-1 xuống −7 °C, giúp tăng mật độ của RP-1 lên 2,5–4%.
So sánh với các nhiên liệu khác
Về hóa học, nhiên liệu hydrocarbon có hiệu suất thấp hơn nhiên liệu hydrogen vì hydrogen giải phóng nhiều năng lượng hơn với cùng một khối lượng nhiên liệu trong buồng đốt, giúp cho động cơ có vận tốc khí xả lớn hơn. Điều này, một phần nào đó, là do khối lượng nguyên tử carbon lớn hơn so với nguyên tử hydro. Động cơ nhiên liệu hydrocarbon cũng thường tốn nhiều nhiên liệu, sản phẩm khí cháy có cả CO thay vì CO2 do không đốt cháy hoàn toàn nhiên liệu. Một số động cơ tên lửa của Nga cũng sử dụng bơm tăng áp để đốt trước nhiên liệu bằng khí giàu Oxy tuy nhiên vẫn tốn nhiều nhiên liệu cho buồng đốt chính. Cuối cùng, động cơ kerosene sản sinh Isp từ 270 đến 360 s, trong khi động cơ hydrogen đạt tới 370 đến 465 s.
Khi động cơ dừng hoạt động, nhiên liệu nạp bị ngắt đột ngột, trong khi động cơ vẫn còn nóng. Lượng nhiên liệu tồn dư sẽ có thể bị polymer hóa, hoặc thậm chí là carbon hóa tại các bộ phận có nhiệt độ cao trong động cơ. Thậm chí nhiên liệu nặng có thể tạo thành cặn dầu mỏ, như có thể thấy trong các thùng chứa xăng, dầu diesel hoặc nhiên liệu phản lực tích trữ lâu ngày. Động cơ tên lửa vốn chỉ có tuổi thọ vài phút thậm chí vài giây, nên các cặn này chưa kịp hình thành. Tuy nhiên động cơ tên lửa cần được bảo dưỡng và thay thế nhiên liệu thường xuyên.
Mặt khác, dưới áp suất buồng đốt , kerosene có thể tạo ra các cặn bẩn trong vòi phun và đáy buồng đốt. Lớp cặn này tạo thành lớp cách nhiệt và làm giảm dòng nhiệt vào thành động cơ tới gần một nửa. Tuy nhiên, hầu hết các động cơ hiện nay đều có áp suất buồng đốt cao hơn nên đây không phải là một ảnh hưởng đáng kể.
Các động cơ sử dụng nhiên liệu hydrocarbon nặng hiện nay đang thay thế thành phần nhiên liệu và chu trình vận hành mới để đốt cháy nhiên liệu tối đa, làm mát tốt hơn, Một số loại động cơ đã chuyển sang sử dụng các hydrocarbon nhẹ như methane và propane. Các sản phẩm phân hủy của methane và propane cũng là chất khí, với ít khả năng xảy ra phản ứng trùng hợp và ít lắng đọng hơn nhiều.
Áp suất hơi thấp của kerosene tạo ra sự an toàn cho các nhân viên mặt đất. Tuy nhiên khi tên lửa bay, cần phải có hệ thống điều áp cho bể chứa kerosene khi nó cạn kiệt. Người ta thường sử dụng bể chứa khí trơ áp suất cao hoặc chất lỏng áp suất cao, như nitrogen hay helium. Điều này làm tăng thêm chi phí và trọng lượng. Các chất đẩy siêu lạnh hoặc chất đẩy dễ bay hơi nói chung không cần hệ thống tạo áp suất riêng như kerosene. Thay vào đó, các chất đẩy giãn nở do nhiệt động cơ, làm chất khí có tỷ trọng thấp và đưa trở lại bình chứa.
RP-1 có những hạn chế do phạm vi sử dụng cho tên lửa đẩy là rất nhỏ, so với các nhiên liệu thông thường dùng cho dân sự. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất nhiên liệu này cũng có hạn. Do đó các kỹ sư thiết kế động cơ tên lửa cố gắng áp dụng nhiên liệu thông thường lên động cơ tên lửa như nhiên liệu máy bay phản lực, hoặc thậm chí là dầu diesel.
Bất kỳ loại nhiên liệu gốc hydrocarbon nào cũng sẽ tạo ra khí thải ô nhiễm hơn nhiều so với nhiên liệu là hydro. Cả nhiên liệu gốc hydrocarbon và nhiên liệu gốc hydro đều tạo ra khí thải oxit nitơ (NOx), do nhiệt độ khí thải động cơ là hơn 1600 °C (2900 °F) sẽ kết hợp nitơ (N2) và oxy (O2) có sẵn trong bầu khí quyển, để tạo ra các oxit nitơ.
Nhiên liệu tương tự RP-1
Robert H. Goddard ban đầu chế tạo các tên lửa sử dụng xăng.
Trong khi RP-1 vẫn còn đang được phát triển, Rocketdyne đã thử nghiệm nhiên liệu diethyl cyclohexane. Nhưng các nghiên cứu không hoàn tất trước khi công việc phát triển tên lửa Atlas và Titan I (được thiết kế để sử dụng RP-1) được tiến hành. Do đó RP-1 được sử dụng làm nhiên liệu hydrocarbon tiêu chuẩn cho tên lửa.
Công thức nhiên liệu tên lửa của Liên Xô đã được nhắc đến bên trên, ngoài ra, Liên Xô đã từng sử dụng syntin (), một loại nhiên liệu năng lượng cao. Syntin chính là 1-methyl-1,2-dicyclopropyl cyclopropane (). Người Nga, thay vì sử dụng RP-1 trên tên lửa Soyuz-2, họ đã chuyển sang sử dụng "naftil" hoặc "naphthyl".
Người ta cũng nghiên cứu loại nhiên liệu RP-2. Khác biệt chính là nó có hàm lượng sulfur thấp hơn RP-1. Tuy nhiên, nó khá hiếm và đắt đỏ hơn RP-1.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Khoảng 2 L nhiên liệu RP-1 **RP-1** (hay **Rocket Propellant-1** hoặc **Refined Petroleum-1**) là một loại nhiên liệu tinh chế từ kerosene (gần giống như nhiên liệu phản lực) được sử dụng là nhiên liệu
**Titan** là tên một dòng tên lửa đẩy sử dụng một lần của Hoa Kỳ sử dụng trong giai đoạn từ năm 1959 đến 2005. Titan I và Titan II là 2 loại tên lửa
nhỏ|Nhiên liệu hypergolic [[hydrazine đang được nạp vào vệ tinh_MESSENGER_. Kỹ thuật viên bắt buộc phải mặc bộ đồ bảo hộ do tính độc hại của nhiên liệu.]] **Chất đẩy Hypergolic** là một loại nhiên
**Atlas** là một dòng tên lửa đẩy của Mỹ phát triển dựa trên tên lửa đạn đạo liên lục địa SM-65 Atlas. Chương trình tên lửa đạn đạo liên lục địa Atlas ban đầu được
Tên lửa **Electron** là một loại thiết bị phóng quỹ đạo hai tầng có thể nối dài (thêm một tầng thứ 3) do công ty hàng không vũ trụ Mỹ Rocket Lab chế tạo để
**Falcon 1** là một thiết bị phóng sử dụng một lần được SpaceX phát triển và sản xuất từ 2006 đến 2009. Vào ngày 28 tháng 9 năm 2008, Falcon 1 trở thành tên lửa
, optional--> |width = |empty = |gross = |propmass = |engines = |solid = |thrust = |SI = |burntime = |fuel = LOX / RP-1 , optional--> |diameter = |width = |empty = |gross =
**Valentin Petrovich Glushko** (, _Valentin Petrovich Glushko_; , _Valentyn Petrovych Hlushko_; sinh ngày 2/09/1908 – 10/1/1989), là kỹ sư và nhà thiết kế tên lửa Liên Xô và có đóng góp trong giai đoạn Liên
**Angara** là một dòng tên lửa đẩy do Trung tâm nghiên cứu và chế tạo Khrunichev (Moscow) nghiên cứu và phát triển. Tên lửa đẩy Angara có khả năng đưa tải trọng từ 3.000 đến
**JSC Kuznetsov** () là một trong những nhà sản xuất động cơ máy bay lớn của Nga, ngoài ra JSC Kuznetsov cũng phát triển và chế tạo động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng cũng
**PGM-19 Jupiter** là một tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân tầm trung của Không quân Mỹ. Nó là tên lửa nhiên liệu lỏng sử dụng nhiên liệu RP-1 và chất oxy hóa
**SM-65 Atlas** là tên lửa đường đạn liên lục địa (ICBM) đầu tiên được phát triển và triển khai bởi Hoa Kỳ. Nó được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ bởi chi nhánh Convair
**Merlin** là dòng động cơ tên lửa do SpaceX phát triển để sử dụng trên các phương tiện phóng Falcon 1, Falcon 9 và Falcon Heavy. Động cơ Merlin sử dụng nhiên liệu là RP-1
**Sea Dragon** ( **Rồng biển**) là một dự án tên lửa đẩy quỹ đạo hai tầng hạng siêu nặng được phóng từ dưới biển của Aerojet vào năm 1962, với Robert Truax là người dẫn
**Titan IIIC** là hệ thống phóng tàu vũ trụ dùng một lần, do Không quân Mỹ vận hành từ năm 1965 đến năm 1982. Nó là phiên bản tên lửa đầu tiên trong dòng tên
**NK-33** và **NK-43** là những động cơ tên lửa được thiết kế và chế tạo bởi Viện thiết kế động cơ Kuznetsov vào cuối những năm 1960s, đầu những năm 1970s. NK là viết tắt
**Bisnovat R-4** (Sau này là Molniya) (tên ký hiệu của NATO AA-5 'Ash') là một loại tên lửa không đối không tầm xa được phát triển sớm nhất của Liên Xô, vào lúc đầu nó
Dầu hỏa **Dầu hỏa** (hoặc **dầu lửa, dầu hôi**, **kêrôsin**, **KO** - Kerosene Oil) (tiếng Anh: _coal oil,_ _kerosene_ (Mỹ và Úc), _paraffin_ hay _paraffin oil_ (Anh và Nam Phi)) là hỗn hợp của các
**Jakarta** (phiên âm tiếng Việt: **Gia-các-ta**, ), tên đầy đủ là **Tỉnh Đặc khu Thủ đô Jakarta** (tiếng Indonesia: _Propinsi Daerah Khusus Ibukota Jakarta_, viết tắt là _Propinsi DKI Jakarta_ hoặc _DKI Jakarta_), là thủ
**Mikoyan-Gurevich MiG-21** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-21) (tên ký hiệu của NATO: **Fishbed** - **Cá hóa thạch**) là một máy bay tiêm kích phản lực, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan, Liên
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ
**Yakovlev Yak-25** (tên ký hiệu của NATO: **Flashlight-A / Mandrake**) là một máy bay tiêm kích đánh chặn và trinh sát cánh cụp, trang bị động cơ phản lực được Liên Xô sử dụng trong
**Mikoyan-Gurevich MiG-23** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "**Flogger**") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich OKB của
**Mikoyan-Gurevich MiG-25** (tiếng Nga: МиГ-25) (tên ký hiệu của NATO: "**Foxbat**") là một máy bay tiêm kích đánh chặn, trinh sát và ném bom siêu thanh thế hệ 3, được thiết kế bởi Phòng thiết
**Indonesia**, tên gọi chính thức là **Cộng hòa Indonesia** (tiếng Indonesia: _Republik Indonesia_), thường được gọi ngắn là **Indo**, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương.
Trong lý thuyết độ phức tạp tính toán, **BPP** (viết tắt của cụm từ tiếng Anh **bounded-error probabilistic polynomial**) là lớp các bài toán quyết định giải được bằng máy Turing ngẫu nhiên trong thời
Chiếc máy bay Mỹ **Republic P-47 Thunderbolt**, còn được gọi là _Jug_ (cái bình), là một trong những mẫu máy bay tiêm kích một động cơ lớn nhất vào thời kỳ đó. Nó là một
**Lockheed P-38 Lightning** (Tia Chớp) là máy bay tiêm kích trong Chiến tranh thế giới thứ hai của Hoa Kỳ. Được phát triển theo yêu cầu của Không lực Lục quân Hoa Kỳ, P-38 có
Mikoyan-Gurevich **MiG-19** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-19) (tên ký hiệu của NATO là "**Farmer**" - **Nông dân**) là máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ hai của Liên Xô, một chỗ ngồi,
Chiếc **Hawker Hurricane** là một máy bay tiêm kích một chỗ ngồi của Anh Quốc được thiết kế và chế tạo phần lớn bởi Hawker Aircraft Ltd, tuy nhiên một số cũng được chế tạo
**Xung lực đẩy riêng** (_I_sp) là đại lượng vật lý đặc trưng cho khả năng tạo ra lực đẩy từ phản ứng của một khối lượng nhiên liệu hoặc chất đẩy. Đối với các động
**Dòng máy bay Airbus A320** vận tải hành khách thương mại tầm ngắn đến tầm trung do hãng Airbus S.A.S. chế tạo. Các phiên bản của dòng máy bay này gồm có **A318**, **A319**, **A320**,
**Tiêm 10** (Trung văn giản thể: 歼-10) là một máy bay tiêm kích đa nhiệm vụ do Tập đoàn công nghiệp hàng không Thành Đô (tên tiếng Hán: 成都飛機公司; tên tiếng Anh:Chengdu Aircraft Industry Corporation,
**Hawker Hunter** là một loại máy bay tiêm kích phản lực cận âm của Anh được phát triển vào thập niên 1950. Phiên bản Hunter một chỗ được đưa vào trang bị với vai trò
Hợp chất hóa học **trichloroethylen** là một halocarbon thường được sử dụng làm dung môi công nghiệp. Nó là một chất lỏng không bắt lửa rõ ràng với mùi ngọt ngào. Không nên nhầm lẫn
**Thuốc phóng** là chất khi chịu tác động bởi xung nhiệt hay tia lửa từ bên ngoài thì cháy tạo nên một lượng khí lớn đẩy một vật thể đi. Các vật thể đẩy đi
**Apollo 4** (9 tháng 11 năm 1967), còn được biết đến với tên gọi **SA-501**, là chuyến bay thử nghiệm không người lái đầu tiên của Saturn V, tên lửa đẩy mà sau này sẽ
**Máy bay ném/thả ngư lôi** là một máy bay quân sự được thiết kế chủ yếu để tấn công tàu thuyền bằng ngư lôi trên không. Máy bay ném ngư lôi đã tồn tại ngay
Chiếc **Hawker Tempest** là một mẫu máy bay tiêm kích của Không quân Hoàng gia Anh sử dụng vào những năm cuối Thế Chiến II. Về cơ bản, nó là một phiên bản được cải
In 3D có nhiều ứng dụng. Trong sản xuất, y học, kiến trúc, trong nghệ thuật và thiết kế tùy biến. Một số người sử dụng máy in 3D để tạo thêm máy in 3D.
nhỏ|453x453px|Nấu chảy bằng laser có chọn lọc **Nấu chảy bằng laser có chọn lọc (SLM)** hoặc **thiêu kết laser kim loại trực tiếp** (**DMLS**) là một kỹ thuật tạo mẫu nhanh, in 3D (AM) được
**P-39 Airacobra** của Bell là một trong những máy bay tiêm kích chủ lực của Hoa Kỳ vào đầu Thế Chiến II. Mặc dù kiểu động cơ đặt giữa là một sáng tạo, thiết kế
phải|Hình ảnh tiêu biểu của các binh đoàn cơ động [[Đức Quốc Xã trong Thế chiến thứ 2, bao gồm xe tăng, bộ binh cơ giới hoá và các binh chủng hỗ trợ.]] **Blitzkrieg**, (
nhỏ|Xe tăng T-54A nhỏ|Súng của Mỹ và đồng minh nhỏ|Pháo tự hành M110 Bài viết này liệt kê **những vũ khí được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam**. Đây là một cuộc chiến khốc
**de Havilland DH.100 Vampire** là một loại máy bay tiêm kích trang bị động cơ phản lực được trang bị cho Không quân Hoàng gia (RAF) vào cuối Chiến tranh thế giới II. Sau Gloster
**Mars 1M No.2**, được các nhà phân tích của NASA đặt tên là **Mars 1960 2** và được giới truyền thông phương Tây đặt tên là **Marsnik 2**, là tàu vũ trụ thứ hai được
**PK** (tiếng Nga: **П**улемёт **К**алашникова, Pulemyot Kalashnikova) là loại súng máy đa năng được thiết kế từ thời Liên Xô và hiện tại Nga vẫn sử dụng. Loại súng này được giới thiệu vào năm
**7,62×39mm M43** là loại đạn súng trường xung kích nổi tiếng do các kỹ sư Nicholai M. Elizarov và Boris V. Semin của Liên Xô thiết kế. Đạn được phát triển vào năm 1943, nhưng
Nền tảng trò chơi điện tử _Roblox_ đến nay đã có nhiều trò chơi (hay "trải nghiệm") do người dùng tạo ra bằng công cụ _Roblox Studio_ của họ. Do sự nổi tiếng của _Roblox_,
**_Liên Minh Huyền Thoại_** (tiếng Anh: **_League of Legends_**, viết tắt: **_LMHT_** hoặc **_LoL_**), thường được gọi ngắn gọn là **_Liên Minh_**, là trò chơi điện tử thể loại đấu trường trận chiến trực tuyến