✨Rocketdyne

Rocketdyne

Rocketdyne là một công ty chuyên thiết kế động cơ tên lửa của Mỹ, có trụ sở đặt tại Canoga Park, phía Tây thung lũng San Fernando, ngoại ô Los Angeles, California.

Rocketdyne Division được thành lập bởi công ty North American Aviation (NAA) vào năm 1955, sau này nó thuộc Rockwell International (1967–1996) và Boeing (1996–2005). Năm 2005, Rocketdyne Division được bán cho United Technologies Corporation, trở thành một bộ phận của Pratt & Whitney. Năm 2013, Pratt & Whitney Rocketdyne được bán cho GenCorp, và sáp nhập với Aerojet trở thành Aerojet Rocketdyne.

Lịch sử

phải|nhỏ|Nhà máy sản xuất động cơ trước đây của Rocketdyne đặt tại [[Canoga Park, Los Angeles|Canoga Park, Los Angeles.]] Sau chiến tranh thế giới II, North American Aviation (NAA) được Bộ quốc phòng trao hợp đồng nghiên cứu tên lửa V-2 của Đức và lên kế hoạch sao chép chế tạo động cơ của nó. NAA cũng sử dụng cùng một cấu hình thiết kế của động cơ tên lửa V-2 để chế tạo động cơ cho tên lửa Navaho (1946-1958). Công việc ban đầu được đánh giá là không quan trọng vào những năm 1940, cho tới khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra vào năm 1950 làm thay đổi mức độ ưu tiên của chương trình. NAA bắt đầu thử nghiệm động cơ tên lửa Navaho tại Santa Susana Field Laboratory (SSFL). Vào thời điểm đó, khu vực thử nghiệm được đặt ở vị trí nằm cách xa khu đông dân cư hơn bất kỳ cơ sở thử nghiệm nào của NAA tại Los Angeles.

Chương trình tên lửa Navaho rơi vào khó khăn và bị hủy bỏ vào năm 1958, thay vào đó là tên lửa PGM-11 Redstone do tập đoàn Chrysler thiết kế (về bản chất là tên lửa V-2 nâng cấp). Tuy nhiên động cơ A-5 hay NAA75-110 của Rocketdyne đã chứng minh độ tin cậy cao hơn so với động cơ được phát triển cho tên lửa Redstone, vì vậy tên lửa Redstone đã được thiết kế lại để sử dụng động cơ A-5, dù cho tên lửa sẽ có tầm bắn ngắn hơn tên lửa ban đầu.

Khi tên lửa được đưa vào sản xuất hàng loạt, NAA đã tách Rocketdyne thành một bộ phận riêng biệt vào năm 1955, và bắt đầu xây dựng một nhà máy mới tại Công viên Canoga vùng ngoại ô Los Angeles Canoga Park, gần với Santa Susana Field Laboratory.

Năm 1967, NAA, cùng với các bộ phận Rocketdyne và Atomics International, đã sáp nhập vào Rockwell Corporation tạo thành công ty North American Rockwell, vào năm 1973 là Rockwell International.

Thor, Delta, Atlas

Bước tiến lớn tiếp theo của Rocketdyne là công ty đã phát triển một thế hệ động cơ tên lửa hoàn toàn mới với tên gọi S-3D. Việc phát triển được tiến hành song song với động cơ dòng A sao chép từ động cơ tên lửa V-2. Động cơ S-3 đã được sử dụng trên tên lửa PGM-19 Jupiter của Lục quân Mỹ và cả tên lửa PGM-17A Thor của Không quân Mỹ. Một thiết kế động cơ tên lửa lớn hơn, LR89/LR105, được sử dụng trên tên lửa ICBM SM-65 Atlas. Tên lửa Thor chỉ được trang bị cho quân đội Mỹ trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng nó đã tiếp tục được sử dụng như một phương tiện phóng vệ tinh vào những năm 1950s và 1960s dưới các phiên bản khác nhau. Đầu tiên là Thor Delta, là nền tảng cho dòng tên lửa đẩy Delta, mặc dù kể từ cuối những năm 1960s, Delta không còn có đặc điểm thiết kế nào của tên lửa Thor. Mặc dù động cơ S-3 được sử dụng cho một vài phiên bản tên lửa Delta nhưng phần lớn, dòng tên lửa này sử dụng phiên bản động cơ nâng cấp của nó là động cơ RS-27, với một động cơ thay cho cụm 3 động cơ ở tên lửa Atlas.

Tên lửa Atlas cũng chỉ phục vụ quân đội trong một khoảng thời gian ngắn, với vai trò là vũ khí răn đe, nhưng dòng tên lửa đẩy Atlas đã trở thành dòng tên lửa đẩy quan trọng nhất của Mỹ trong suốt nhiều thập kỷ, trong đó phải kể đến chương trình Mercury là chương trình tàu vũ trụ có người lái đầu tiên của Mỹ. Bên cạnh đó còn có tên lửa -Agena và Atlas-Centaur. Tên lửa Atlas V hiện nay vẫn còn được Mỹ chế tạo và sử dụng. nhỏ|Bãi thử nghiệm động cơ của Rocketdyne đang thử nghiệm động cơ [[Rocketdyne J-2|J-2, khu vực núi Santa Susana.]]

NASA

Rocketdyne đồng thời cũng trở thành nhà phát triển động cơ đẩy tàu vũ trụ chính cho NASA. Rocketdyne đã chế tạo các động cơ chính cho tên lửa đẩy Saturn, và chương trình tên lửa đẩy Nova. Động cơ H-1 của Rocketdyne được sử dụng trên tên lửa đẩy Saturn I. Năm động cơ F-1 sử dụng trên tầng 1 tên lửa đẩy Saturn V, trong khi hai động cơ J-2 được sử dụng cho tầng 2, và một động cơ J-2 sử dụng trên tầng đẩy S-IVB thứ 3 của tên lửa Saturn V. Đến năm 1965, Rocketdyne đã chế tạo phần lớn động cơ tên lửa của Hoa Kỳ, ngoại trừ động cơ của dòng tên lửa Titan (được chế tạo bởi Aerojet ), và biên chế của công ty đã tăng lên 65.000. Sự tăng trưởng này dường như được dự định sẽ tiếp tục vào những năm 1970s khi Rocketdyne giành được hợp đồng chế tạo Động cơ chính RS-25 của tàu con thoi (SSME), nhưng sự cắt giảm nhanh chóng của các hợp đồng quân sự và dân sự đã dẫn đến việc thu hẹp quy mô của công ty. Công ty mẹ North American Aviation, nhà sản xuất tàu vũ trụ lớn của Mỹ khi đó, cũng chủ yếu dựa vào dự án chế tạo tàu con thoi, đã sáp nhập vào Rockwell Corporation vào năm 1966 tạo thành công ty North American Rockwell, sau đó vào năm 1973, với Rocketdyne là một bộ phận trực thuộc.

trái|nhỏ|Góc nhìn từ trên cao của Nhà máy Rockedyne Canoga vào năm 1960. Hướng chụp nhìn về Đông Nam

Cắt giảm

Trong thời gian tiếp tục cắt giảm quy mô vào những năm 1980 và 1990, Rockwell International đã chia tách một số bộ phận của tập đoàn Rockwell Bắc Mỹ trước đây. Các thực thể hàng không vũ trụ của Rockwell International, bao gồm cả NAA và Rocketdyne trước đây, đã được bán cho Boeing vào năm 1996. Rocketdyne trở thành một phần của bộ phận phòng thủ của Boeing. Vào tháng 2 năm 2005, Boeing đạt được thỏa thuận bán "Rocketdyne Propulsion & Power" cho Pratt & Whitney của United Technologies Corporation. Giao dịch hoàn tất vào ngày 2 tháng 8 năm 2005. Boeing vẫn giữ quyền sở hữu Phòng thí nghiệm Santa Susana của Rocketdyne.

GenCorp đã mua Pratt & Whitney Rocketdyne vào năm 2013 từ United Technologies Corporation, và hợp nhất nó với Aerojet để tạo thành Aerojet Rocketdyne. sử dụng trên tên lửa PGM-11 Redstone

  • Rocketdyne A7 (LOX/Alcohol) sử dụng trên tên lửa Jupiter C
  • Rocketdyne 16NS-1,000
  • Rocketdyne Kiwi Nuclear rocket engine (XLR71-NA-1, B-2C, XLR83-NA-1, LR79-7, S-3D, XLR89-1, MB-3-1, X-1, LR83-NA-1, H-1, LR89-5, XLR89-5, S-3, LR89-7, MB-3-J, MB-3 Press Mod, MB-3-3, RZ.2, H-1c, H-1b, RS-27, RS-27A, RS-56-OBA, RS-27C)
  • Rocketdyne LR-101 (S-4, LR105-5, XLR105-5, LR105-7, RS-56-OSA, LR105-3)
  • Rocketdyne Aeolus
  • Rocketdyne XRS-2200, linear aerospike engine, thử nghiệm cho phi thuyền Lockheed Martin X-33
  • Rocketdyne RS-2200, linear aerospike engine, dự định sử dụng trên Venturestar
  • Rocketdyne S-3D (RP-1/LOX) Sử dụng trên tên lửa PGM-19 Jupiter và PGM-17 Thor, và tên lửa đẩy Juno II
  • Rocketdyne E-1 (RP-1/LOX) Động cơ dự phòng cho tên lửa Titan I
  • Rocketdyne F-1 (RP-1/LOX) Sử dụng trên tên lửa đẩy Saturn V.
  • Rocketdyne H-1 (RP-1/LOX) Sử dụng trên tên lửa đẩy Saturn I và IB
  • Rocketdyne J-2 (LH2/LOX) Sử dụng trên Saturn V và Saturn IB.
  • Rocketdyne RS-25 Space Shuttle Main Engine (SSME) (LH2/LOX) Sử dụng làm động cơ chính cho tàu con thoi, đồng thời cũng sử dụng trên Hệ thống phóng tàu không gian SLS
  • Rocketdyne RS-27A (RP-1/LOX) Sử dụng trên tên lửa Delta II/III và ICBM SM-65 Atlas.
  • Rocketdyne RS-56 (RP-1/LOX) Sử dụng trên tầng đẩy 1 của tên lửa Atlas II.
  • Rocketdyne RS-68 (LH2/LOX) Sử dụng trên tầng 1 tên lửa Delta IV.

Hình ảnh

Tập tin:F-1 rocket engine.jpg|Động cơ tên lửa F-1 Tập tin:Redstone Rocket Engine.jpg|Rocketdyne 75-110-A-6 (PGM-11 Redstone) Tập tin:H-1 rocket engine diagram.jpg|Động cơ H-1 Tập tin:J-2 rocket engine.jpg|Động cơ J-2 Tập tin:Artist concept of the J-2X rocket engine.jpg|Động cơ J-2X Tập tin:Mercury Atlas vernier motor, Truax variant.jpg|Động cơ Vernier sử dụng trên tên lửa Atlas-Mecury, (Rocketdyne LR101) Tập tin:Stafford Air & Space Museum, Weatherford, OK, US (34).jpg|Động cơ LR-105 (Động cơ trung tâm của tên lửa Atlas) Tập tin:Rocketdyne LR79 (1).jpg|Động cơ LR-79/MB3 cho ICBM Thor Tập tin:Rockets Huntsville Alabama 1987.jpg|LR89 Tập tin:Titan 4B Upper Stage Aft with a single LR91.jpg|LR91-AJ-11 (tầng đẩy mang tải trọng của tên lửa Titan 4B) Tập tin:AGM-53A Condor rocket motor.jpg|AGM-53A Condor Tập tin:RL-10 rocket engine.jpg|Động cơ RL-10
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Rocketdyne** là một công ty chuyên thiết kế động cơ tên lửa của Mỹ, có trụ sở đặt tại Canoga Park, phía Tây thung lũng San Fernando, ngoại ô Los Angeles, California. Rocketdyne Division được
**PGM-19 Jupiter** là một tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân tầm trung của Không quân Mỹ. Nó là tên lửa nhiên liệu lỏng sử dụng nhiên liệu RP-1 và chất oxy hóa
**SM-65 Atlas** là tên lửa đường đạn liên lục địa (ICBM) đầu tiên được phát triển và triển khai bởi Hoa Kỳ. Nó được chế tạo cho Không quân Hoa Kỳ bởi chi nhánh Convair
**PGM-17A Thor** là loại tên lửa đạn đạo đầu tiên được Không quân Mỹ đưa vào trang bị. Được đặt theo tên của Norse god of thunder, nó được triển khai trong biên chế của
**NK-33** và **NK-43** là những động cơ tên lửa được thiết kế và chế tạo bởi Viện thiết kế động cơ Kuznetsov vào cuối những năm 1960s, đầu những năm 1970s. NK là viết tắt
**Atlas** là một dòng tên lửa đẩy của Mỹ phát triển dựa trên tên lửa đạn đạo liên lục địa SM-65 Atlas. Chương trình tên lửa đạn đạo liên lục địa Atlas ban đầu được
Một đoạn cấu trúc giàn tích hợp Viết tắt là ITS (Integrated Truss Structure), **cấu trúc giàn tích hợp** gồm các giàn thành phần được lắp ghép với nhau để tạo thành một hệ thống
**Merlin** là dòng động cơ tên lửa do SpaceX phát triển để sử dụng trên các phương tiện phóng Falcon 1, Falcon 9 và Falcon Heavy. Động cơ Merlin sử dụng nhiên liệu là RP-1
**N1/L3** (viết tắt của cụm từ , "Carrier Rocket"-"Tên lửa mang"; Cyrillic: **Н1**) là một loại tên lửa đẩy siêu trọng của Liên Xô. Trong đó, N1 là tên của tên lửa đẩy, còn L3
**Juno II** là phương tiện phóng vệ tinh được Mỹ sử dụng trong giai đoạn cuối thập niên 1950 và đầu những năm 1960. Nó được thiết kế dựa trên tên lửa PGM-19 Jupiter với
nhỏ|Nhiên liệu hypergolic [[hydrazine đang được nạp vào vệ tinh_MESSENGER_. Kỹ thuật viên bắt buộc phải mặc bộ đồ bảo hộ do tính độc hại của nhiên liệu.]] **Chất đẩy Hypergolic** là một loại nhiên
Tên lửa **LGM-30 Minuteman** là loại tên lửa liên lục địa (ICBM) phóng từ giếng phóng trên đất liền của Mỹ. , phiên bản tên lửa **LGM-30G Minuteman III** là loại tên lửa duy nhất
phải|nhỏ|So sánh các cấu hình tên lửa, tháng 4 năm 1962, từ trái sang phải là tên lửa Saturn I, Saturn V và "Nova C8". (Mỗi cấu hình đều bao gồm một tầng đẩy bổ
thumb|Khoảng 2 L nhiên liệu RP-1 **RP-1** (hay **Rocket Propellant-1** hoặc **Refined Petroleum-1**) là một loại nhiên liệu tinh chế từ kerosene (gần giống như nhiên liệu phản lực) được sử dụng là nhiên liệu
phải|nhỏ|Động cơ RD-170 được phát triển bởi NPO Energomash. **NPO Energomash** "V. P. Glushko" là một nhà sản xuất động cơ tên lửa lớn của Nga. Công ty chủ yếu phát triển và sản xuất
trạm [[ISS sau STS-123]] **Station-to-Shuttle Power Transfer System** (SSPTS) là hệ thống này cung cấp điện năng từ trạm không gian quốc tế cho tàu con thoi. ## Lịch sử Đề án SSPTS đặc biệt
Chiếc **Lockheed F-104 Starfighter** là một kiểu máy bay tiêm kích đánh chặn siêu thanh một động cơ có tính năng bay khá cao, đã phục vụ cho Không quân Hoa Kỳ từ năm 1958
**Delta II** là một tên lửa vũ trụ (hay hệ thống phóng vào vũ trụ) nguyên được thiết kế và đóng bởi công ty McDonnell Douglas, sau đó được đóng bởi Integrated Defense Systems là
Huy hiệu của tàu con thoi **Tàu con thoi** của NASA, chính thức được gọi là **Space Transportation System** (**STS**), nghĩa là "Hệ thống Chuyên chở vào Không gian", từng là phương tiện phóng tàu
**Tàu con thoi**, là một hệ thống tàu vũ trụ quỹ đạo thấp có thể tái sử dụng, được vận hành bởi Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA). Tên chính thức
**Các tên lửa Delta IV là** các phiên bản tân tiến nhất từ năm 1960 bắt nguồn từ tên lửa Delta là Delta IV đã được phát triển như một phần của chương trình EELV
**Skyflash**, hay **Sky Flash** phiên bản xuất khẩu, là loại tên lửa không đối không tầm trung dẫn đường bằng đầu dò radar bán chủ động phát triển từ tên lửa AIM-7 Sparrow. Loại tên
**Apollo 6** (4 tháng 4 năm 1968), còn gọi là **AS-502**, là chuyến bay không người lái thứ ba và cuối cùng trong chương trình Apollo, đồng thời là cuộc thử nghiệm thứ hai của
**Vinton Gray Cerf** hoặc **Vint Cerf** ForMemRS, (/sɜːrf/; sinh ngày 23 tháng 6 năm 1943) là một người Mỹ đi tiên phong về Internet, người được công nhận là một trong những "cha đẻ của
**Lunar Gateway** (gọi đơn giản là **Gateway**) là một tổ hợp công trình quốc tế được đặt ở bên trong quỹ đạo nguyệt tâm. Gateway đóng vai trò như là một trung tâm liên lạc
**Máy bay Boeing 747 Dreamlifter**, còn được gọi là **Boeing 747-400 Máy bay chở hàng lớn (LCF)**, là một máy bay chở hàng thân rộng. Với 65.000 feet khối (1.840 m³) Dreamlifter có thể chứa