✨Đầu đạn MIRV

Đầu đạn MIRV

thumb|upright=1.2|Đầu đạn MIRV trên tên lửa [[LGM-118 Peacekeeper. Các đầu đạn được tô màu đỏ.]] thumb|Các kỹ thuật viên đang bảo trì đầu đạn MIRV Mk21 trên tên lửa [[LGM-118 Peacekeeper]] thumb|upright|Đầu đạn MIRV của tên lửa ICBM [[LGM-118 Peacekeeper|LGM-118A Peacekeeper ]] thumb|upright|Tên lửa Trident II, mỗi tên lửa có khả năng mang theo tới 14 đầu đạn.

Đầu đạn hồi quyển tấn công đa mục tiêu độc lập multiple independently targetable reentry vehicle (MIRV) là một loại tải trọng của tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, bao gồm nhiều đầu đạn hạt nhân cỡ nhỏ, có khả năng lập trình tấn công mục tiêu riêng lẻ. Đầu đạn MIRV thường đi liền với tên lửa xuyên lục địa. Tên lửa liên lục địa bên cạnh đó cũng có thể trang bị một đầu đạn hạt nhân duy nhất. Hiện nay chỉ có Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc đã được công nhận là sở hữu tên lửa ICBM với đầu đạn MIRV.

Tên lửa ICBM đầu tiên có thiết kế đầu đạn MIRV là tên lửa Minuteman III, được thử nghiệm lần đầu vào năm 1968 và được đưa vào triển khai từ năm 1970. Tên lửa Minuteman III được trang bị với ba đầu đạn W62, có đương lượng nổ của mỗi đầu đạn là khoảng , thay cho đầu đạn W56 đương lượng nổ trên các phiên bản tên lửa ICBM Minuteman từ trước đó. Tư năm 1970 đến 1975, Hoa Kỳ đã loại bỏ khoảng 550 tên lửa ICBM Minuteman thuộc phiên bản cũ trong kho tên lửa của Lực lượng Không quân Chiến lược va thay thế chúng bằng phiên bản Minuteman III với đầu đạn MIRV giúp tăng đang kể hiệu suất tổng thể của tên lửa. Nga vẫn tiếp tục phát triển tên lửa ICBM mới sử dụng công nghệ này.

Việc đầu đạn MIRV ra đời đã làm thay đổi cán cân chiến lược. Trước đây, mỗi tên lửa với trang bị một đầu đạn, các hệ thống phòng thủ tên lửa chỉ cần một tên lửa đánh chặn cho mỗi tên lửa ICBM. Bất kỳ việc tăng số lượng tên lửa, sẽ kéo theo việc gia tăng tương tự các đầu đạn đánh chặn. Đối với đầu đạn MIRV, phe phòng thủ phải xây dựng hệ thống phòng thủ đa mục tiêu cho mỗi tên lửa đạn đạo phóng tới, đồng nghĩa với việc phát triển và chế tạo tên lửa mới sẽ ít tốn kém hơn so với bên phòng thủ. Tỉ lệ chênh lệch nghiêng về phía bên tấn công đã khiến khái niệm tấn công huỷ diệt lẫn nhau trở thành kế hoạch hàng đầu trong các hoạch định chiến lược và các hệ thống ABM bị hạn chế nghiêm trọng trong Hiệp ước ABM vào năm 1972 nhằm tránh chạy đua vũ trang quy mô lớn.

Mục đích

Mục đích của MIRV gồm bốn phần: Nâng cao trình độ tấn công phủ đầu cho lực lượng tên lửa chiến lược. Cung cấp khả năng sát thương mục tiêu lớn hơn cho một trọng tải nhất định vũ khí nhiệt hạch. Các đầu đạn cỡ nhỏ và đương lượng nổ thấp gây ra diện tích phá huỷ lớn hơn nhiều so với một đầu đạn duy nhất. Ngược lại nó cũng làm giảm số lượng tên lửa đạn đạo và số phương tiện phóng cần thiết để gây ra mức thiệt hại yêu cầu. Với tên lửa chỉ có một đầu đạn, mỗi mục tiêu sẽ cần ít nhất một tên lửa ICBM. Trong khi đối với đầu đạn MIRV, mỗi tên lửa ICBM có khả năng chống lại nhiều mục tiêu trải rộng trên một diện tích rộng lớn. Giảm hiệu quả của hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo vốn được thiết kế để đánh chặn từng đầu đạn hạt nhân. Trong khi tên lửa MIRV có khả năng mang nhiều đầu đạn (312 đầu đạn đối với ICBM của Hoa Kỳ và Nga, hoặc tối đa là 14 đầu đạn theo cấu hình tầm ngắn trên tên lửa SLBM Trident II theo hiệp định START), các tên lửa đánh chặn sẽ chỉ có một đầu đạn trên mỗi tên lửa. DO đó, theo khía cạnh quân sự và kinh tế, đầu đạn MIRV khiến cho hệ thống ABM trở nên kém hiệu quả hơn, vì chi phí duy trì hệ thống phòng thủ khả thi để đối phó với đầu đạn MIRV sẽ tăng lên đáng kể, đòi hỏi nhiều tên lửa đánh chặn cho mỗi tên lửa ICBM tấn công. Các phương tiện hồi quyển dạng mồi nhử có thể được sử dụng kết hợp với đầu đạn thật để tăng khả năng xuyên thủng lá chắn phòng thủ tên lửa. Một hệ thống đánh chặn sớm, từ trước khi tên lửa ICBM triển khai đầu đạn MIRV sẽ tránh được điều này nhưng sẽ khó thực hiện và khó triển khai do tốn kém.

Các đầu đạn MIRV trang bị trên tên lửa đạn đạo liên lục địa phóng từ đất liền được coi là gây mất ổn định do chúng được thiết kế để tấn công trước. Tên lửa Minuteman III là tên lửa ICBM đầu tiên có khả năng triển khai MIRV, triển khai từ những năm 1970, có nguy cơ làm tăng nhanh kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và do đó có khả năng nước này có đủ bom hạt nhân để phá huỷ hầu như toàn bộ vũ khí hạt nhân của Liên Xô và vô hiệu hoá bất kỳ sự trả đũa hạt nhân nào. Sau này, Mỹ lo ngại tên lửa mang đầu đạn MIRV của Liên Xô vì tên lửa của Liên Xô có tải trọng lớn hơn và do đó có khả năng triển khai nhiều đầu đạn hơn so với Mỹ. Mỹ có tỉ lệ kho vũ khí hạt nhân tên lửa ICBM ít hơn Liên Xô. Máy bay ném bom chiến lược cũng không có khả năng trang bị đầu đạn MIRV nên đương lượng nổ không được nhân lên. Do đó, dường như Mỹ không có tiềm năng sử dụng đầu đạn MIRV như Liên Xô. Tuy nhiên Mỹ có số lượng tên lửa SLBM nhiều hơn Liên Xô, cũng có thể trang bị đầu đạn MIRV nên có thể bù đắp nhược điểm của ICBM phóng từ đất liền. Chính vì khả năng tấn công phủ đầu, nên tên lửa mang đầu đạn MIRV phóng từ đất liền đã bị cấm theo thoả thuận START II. Hiệp định START II được Duma Nga phê chuẩn ngày 14 tháng 4 năm 2000, nhưng Nga đã rút khỏi hiệp ước vào năm 2002, sau khi Mỹ rút khỏi hiệp định ABM.

Cách hoạt động

Đối với đầu đạn MIRV, động cơ chính trên tầng đẩy mang tải trọng sẽ kích hoạt đẩy khoang chứa đầu đạn theo quỹ đạo đạn đạo dưới quỹ đạo. Sau đó, quỹ đạo được tinh chỉnh nhờ các động cơ cỡ nhỏ, điều chỉnh theo hệ thống dẫn đường quán tính. Khoang chứa đầu đạn hướng tới mục tiêu và "thả" đầu đạn rơi tự do theo quỹ đạo, sau đó khoang chứa động cơ sẽ bay theo quỹ đạo khác đến mục tiêu thứ hai, tiếp tục thả đầu đạn lên mục tiêu thứ hai, và cứ lần lượt như vậy cho đến khi hết đầu đạn con.

thumb|upright=1.5|Nguyên lý của đầu đạn MIRV tên lửa ICBM [[LGM-30 Minuteman|Minuteman III 1. Tên lửa được phóng khỏi giếng phóng bằng động cơ tầng 1 (A).

  1. Khoảng 60 giây sau khi phóng, tầng 1 sẽ được tách ra khỏi tên lửa và động cơ tầng 2 (B)được kích hoạt. Vỏ chụp đầu tên lửa (E) được phóng ra.

  2. Khoảng 120 giây sau khi phóng, động cơ tầng 3 (C) được kích hoạt và tách khỏi tầng đẩy 2.4. Khoảng 180 giây sau khi phóng, động cơ tầng ba ngắt và tầng đẩy mang tải trọng MIRV được tách ra khỏi tên lửa.5. Khoang chứa đầu đạn MIRV tự thay đổi quỹ đạo và chuẩn bị triển khai các đầu đạn hồi quyển RV.

  3. Trong khi khoang chứa đầu đạn MIRV quay trở lại bầu khí quyển, các đầu đạn RV, mồi nhử, nhiễu được triển khai.7. Đầu đạn con cùng với các thiết bị đánh lạc hướng bắt đầu thâm nhập bầu khí quyển, ở tốc độ cao và ngòi nổ trên đầu đạn con được kích hoạt trong giai đoạn này.8. Đầu đạn hạt nhân được kích hoạt trên không hoặc trên mặt đất.]]

Các thông số kỹ thuật liên quan đến MIRV đều là thông tin mật cấp độ quân sự. Khoang chứa đầu đạn chỉ có lượng nhiên liệu hạn chế, khiến cho khoảng cách các mục tiêu tấn công khả dĩ bị thu hẹp xuống chỉ vài trăm km. Một số đầu đạn được thiết kế kiểu tàu lượn siêu vượt âm, ngoài ra một số đầu đạn MIRV còn có khả năng thả mồi bẫy như các bóng làm bằng nhôm như hệ thống Chevaline của Anh.

thumb|Thử nghiệm tên lửa [[LGM-118 Peacekeeper|Peacekeeper; tất cả tám (có khả năng là mười) đầu đạn được thả từ một tên lửa. Mỗi vệt ánh sáng là đường đạn của đầu đạn con.]]

MRV

Phương tiện hồi quyển đa mục tiêu (MRV) sẽ triển khai đầu đạn một cách tự do trên mục tiêu, giống như bom chùm. Những đầu đạn con này không có khả năng nhắm mục tiêu độc lập, ưu điểm là nó phủ rộng diện tích thiệt hại hơn là một đầu đạn đơn duy nhất, và khiến hệ thống đánh chặn khó khăn hơn do phải triển khai nhiều tên lửa đánh chặn cùng một lúc. *Agni-V (đang phát triển)

;Israel: *Jericho 3 (đang hoạt động)

;Pakistan: *Ababeel (đang thử nghiệm)

;USSR/Russian Federation: thumb|upright|Ba đầu đạn MIRV của tên lửa [[RSD-10 Pioneer tại National Air and Space Museum]] R-36 mod 4 (retired, 10-14 warheads) R-36 mod 5 (active, 10 warheads) R-29R (active, 3 warheads) R-29RK (retired, 7 warheads) MR-UR-100 Sotka (retired, 4 warheads) UR-100N mod 3 (retired, 6 warheads) RSD-10 Pioneer (retired, 3 warheads) R-39 Rif (retired, 10 warheads) R-29RM Shtil (retired, 4 warheads) RT-23 Molodets (retired, 10 warheads) R-29RMU Sineva (active, 4 or 10 warheads) RS-24 Yars (active, 3-4 warheads) R-29RMU2 Layner (active, 4 or 12 warheads) RSM-56 Bulava (active 6-10 warheads) RS-28 Sarmat (active, 10-15 warheads) RS-26 Rubezh (development stopped, 4 warheads) *BZhRK Barguzin (development stopped, 4-16 warheads)

;United Kingdom: *UGM-133 Trident II (đang hoạt động 8-14 đầu đạn)

;United States: LGM-30 Minuteman III (hoạt động, 1-3 đầu đạn, hiện đang mang một đầu đạn) UGM-73 Poseidon (ngừng hoạt động, 10 hay 14 đầu đạn) UGM-96 Trident I (ngừng hoạt động, 8 đầu đạn) LGM-118 Peacekeeper (ngừng hoạt động, 10 đầu đạn) *UGM-133 Trident II (đang hoạt động 8-14 đầu đạn)

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|upright=1.2|Đầu đạn MIRV trên tên lửa [[LGM-118 Peacekeeper. Các đầu đạn được tô màu đỏ.]] thumb|Các kỹ thuật viên đang bảo trì đầu đạn MIRV Mk21 trên tên lửa [[LGM-118 Peacekeeper]] thumb|upright|Đầu đạn MIRV của
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
Các loại tên lửa đạn đạo thường có đường bay theo từng pha-giai đoạn riêng biệt. Chúng lần lượt là các pha: **khởi tốc (tăng tốc)**, là pha mà tại đó, động cơ tên lửa
**Tên lửa chống tên lửa đạn đạo** (_anti-ballistic missile_ - ABM) là một tên lửa được thiết kế để chống lại các tên lửa đạn đạo (một tên lửa dùng để phòng thủ tên lửa).
Tên lửa **R-36** () là một họ tên lửa đạn đạo liên lục địa và tên lửa đẩy (Tsyklon) được thiết kế bởi Phòng thiết kế Yuzhnoye, Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Tên lửa **LGM-30 Minuteman** là loại tên lửa liên lục địa (ICBM) phóng từ giếng phóng trên đất liền của Mỹ. , phiên bản tên lửa **LGM-30G Minuteman III** là loại tên lửa duy nhất
Tên **lửa UGM-27 Polaris** là một tên lửa đạn đạo hai tầng nhiên liệu rắn phóng từ tàu ngầm. Đây là SLBM đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ, nó được trang bị từ năm
**RSD-10 _Pioneer**_ ( tr.: _raketa sredney dalnosti (RSD) "Pioner"_; ) là tên lửa đạn đạo tầm trung mang đầu đạn hạt nhân, được Liên Xô triển khai từ năm 1976 đến năm 1988. Nó có
Tên lửa **UGM-73 Poseidon** là loại tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm thứ hai được phát triển và trang bị cho Hải quân Mỹ. Tên lửa là loại tên lửa nhiên liệu rắn
phải|nhỏ| Tên lửa DF-31A sau cuộc duyệt binh năm 2015 phải|nhỏ| Tầm bắn của nhiều loại tên lửa Trung Quốc (năm 2007); Tầm bắn của DF-31 được đánh dấu màu xanh lá. **DF-31** (Hán Việt:
**RT-2PM2 «Topol-M»** (, tên ký hiệu của NATO: **SS-27 "Sickle B"**, **SS-27 Mod 1**, **RS-12M1**, **RS-12M2**, hoặc thường bị gọi thiếu chính xác là **RT-2UTTKh**) là một trong số những tên lửa liên lục địa
**MR-UR-100 Sotka** là tên lửa đạn đạo liên lục địa có trang bị đầu đạn MIRV được Liên Xô phát triển và triển khai từ năm 1978 đến 1993. Tên ký hiệu của NATO là
**UR-100N**, hay còn được biết đến là **RS-18A** là một tên lửa đạn đạo liên lục địa của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay. Tên ký hiệu của NATO cho tên lửa là
Dongfeng-17, là hệ thống tên lửa đạn đạo di động tầm trung nhiên liệu rắn của Trung Quốc, được chế tạo nhằm mang phương tiện lượn siêu vượt âm [https://en.m.wikipedia.org/wiki/DF-ZF DF-ZF (Wu-14)] . DF-17 mang
nhỏ|Submarine-based missiles: R-29, R-29Р, R-39, R-29РМ, CSS-NX-3, JL-2 **R-39 Rif**, hay **Rif-Ma** là một tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm (SLBM) của Liên Xô (cũ) và Nga hiện nay. Nó có tên mã
**UR-100** () là tên lửa liên lục địa (ICBM) được Liên Xô phát triển và trang bị từ năm 1966 đến năm 1996. **UR** () là viết tắt của Universal Rocket (). Tên ký hiệu
**RS-26 Rubezh** (tiếng Nga: _РС-26 Рубеж_) (_ranh giới_ hay _biên giới_, còn được biết đến trong chương trình phát triển **phương tiện bay dạng tàu lượn siêu vượt âm Avangard** _Авангард_) SS-X-31 hay SS-X-29B (một
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã phát triển và trang bị các vũ khí hủy diệt hàng loạt, gồm vũ khí hóa học và vũ khí hạt nhân. Trung Quốc đã tiến hành thử
Tổ chức **Phòng thủ chiến lược ban đầu** (**SDI**), hay còn gọi là chương trình phòng thủ "**_Chiến tranh giữa các vì sao_**", là một hệ thống phòng thủ tên lửa với nhiệm vụ bảo
**Agni-V**' là tên lửa đạn đạo liên lục địa sử dụng nhiên liệu rắn được phát triển bởi DRDO của Ấn Độ. Tên lửa đạn đạo liên lục địa Agni-V có tầm phóng hơn 5.500 km.
nhỏ|Tên lửa Sprint là vũ khí chủ yếu của hệ thống phòng thủ Nike-X. Nó có thể đánh chặn đầu đạn ICBM chỉ vài giây trước khi chúng được kích nổ. **Nike-X** là một tên
The **Avangard** (; ), trước đây có mã thử nghiệm là **Objekt 4202**, **Yu-71** and **Yu-74**, là một phương tiện lượn siêu vượt âm (HGV) tốc độ đạt tới Mach 27. Nó được mang theo
**Tàu ngầm lớp** **Yankee**, Liên Xô gọi là **Project 667A _Navaga**_ và **Project 667AU _Nalim_**, là các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Hải quân Liên Xô. Tổng cộng đã có
**Oreshnik** (tiếng Nga: _Орешник_, có nghĩa là cây phỉ) theo Tổng thống Nga Vladimir Putin thì đó là một loại tên lửa đạn đạo tầm trung (_IRBM_) của Nga. Loại tên lửa này được cho
phải|nhỏ|414x414px|[[Ivy Mike là thử nghiệm hoàn chỉnh đầu tiên của bom nhiệt hạch do Teller–Ulam thiết kế (Bom nhiệt hạch 2 giai đoạn), với đương lượng nổ 10.4 megatons (1/11/1952)]] **Lịch sử thiết kế bom
Địa điểm thử nghiệm Tsar Bomba **Tsar Bomba** (), dịch nghĩa "bom-Sa hoàng", là tên hiệu của quả bom khinh khí AN602 (mã hiệu "**Ivan**" do những người phát triển nó đặt tên) — là
**_True Lies_** là một bộ phim hài hành động năm 1994 của Mỹ, đồng biên kịch và đạo diễn bởi James Cameron, với các diễn viên chính Arnold Schwarzenegger và Jamie Lee Curtis. _True Lies_
**Tàu ngầm Đề án 941 Akula** (tiếng Nga: **Проекта 941 Акула**) là loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo được triển khai bởi Liên Xô trong những năm 1980. Với trọng tải
Vũ khí vệ tinh [[Ion Cannon của Global Defense Initiative]] **_Nhánh Tiberian_** là một phân nhánh trò chơi chiến lược thời gian thực thuộc _thương hiệu Command & Conquer_ của Westwood Studios và Electronic Arts.
**Hiệp ước về loại bỏ tên lửa tầm trung** và tầm ngắn ( viết tắt là _DRSMD_), (, viết tắt là _INF_) là một thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, được ký bởi
**Lực lượng Vũ trang Cộng hòa Hồi giáo Iran** (tiếng Ba tư: نيروهای مسلح جمهوری اسلامی ايران) gồm Quân đội Cộng hòa Hồi giáo Iran (tiếng Ba tư: ارتش جمهوری اسلامی ایران), Vệ binh Cách