✨Đỉnh điểm (thiên văn học)

Đỉnh điểm (thiên văn học)

nhỏ|247x247px|Đỉnh điểm (culmination) của một ngôi sao là khi đường chuyển động biểu kiến hàng ngày của nó cắt đường kinh tuyến (meridian) nơi quan sát. Trong thiên văn học quan sát, đỉnh điểm hay cực điểm là thời điểm mà một thiên thể (Mặt Trời, Mặt Trăng, một hành tinh, ngôi sao, chòm sao hay thiên thể xa) đi qua kinh tuyến thiên thể của người quan sát. Các thời điểm này cũng được gọi là quá cảnh kinh tuyến, được đo đạc chính xác bằng một thiết bị gọi là kính thiên văn quá cảnh, và được sử dụng làm điểm mốc trong việc đếm thời gian và định hướng.

Hàng ngày, các thiên thể được trông thấy di chuyển theo những đường tròn trên mặt cầu thiên thể do sự quay của Trái Đất, do đó có hai thời điểm mà thiên thể cắt đường kinh tuyến mỗi ngày. Ngoại trừ ở các địa cực, một thiên thể bất kỳ đi qua đường kinh tuyến tại đỉnh điểm trên, khi nó đạt tới vị trí cao nhất trên đường chân trời (gần nhất với thiên đỉnh), và gần 12 tiếng sau, là đỉnh điểm dưới khi nó đạt tới vị trí thấp nhất. Thời điểm đỉnh điểm (khi thiên thể tới đỉnh điểm) nói chung thường được sử dụng để chỉ đỉnh điểm trên.

Độ cao của một thiên thể (h) theo độ lúc đỉnh điểm trên bằng 90 độ trừ đi trị tuyệt đối của hiệu số giữa xích vĩ của thiên thể (δ) trừ vĩ độ (L) của người quan sát: .

Ngược lại, độ cao của thiên thể tại đỉnh điểm dưới được cho bởi: .

Trong các công thức trên, Lδ đều có giá trị đại số với quy ước độ vĩ bắc mang dấu dương và độ vĩ nam mang dấu âm.

Các trường hợp

Có ba trường hợp, phụ thuộc vào vĩ độ (L) của người quan sát và xích vĩ (δ) của thiên thể:

  • Thiên thể ở bên trên đường chân trời ngay cả lúc đỉnh điểm dưới, hay nếu
  • Thiên thể ở bên dưới đường chân trời ngay cả lúc đỉnh điểm trên, hay nếu
  • Còn lại, đỉnh điểm trên ở trên đường chân trời và đỉnh điểm dưới ở dưới, vì thế thiên thể được trông thấy mọc và lặn hàng ngày Thiên thể lên mọc lên tới độ cao 90 độ hay ở ngay trên đỉnh đầu tại đỉnh điểm trên khi và chỉ khi xích vĩ của thiên thể bằng vĩ độ quan sát.

Trường hợp thứ ba xảy ra đối với các thiên thể nằm trong một đới cầu của toàn bộ bầu trời tỉ lệ với cosin của vĩ độ (tại xích đạo nó xảy ra với toàn bộ thiên thể, bởi vì bầu trời "quay" quanh đường nằm ngang bắc–nam; tại các cực nó không xảy ra với thiên thể nào, bởi vì bầu trời "quay" quanh đường thẳng đứng). Trường hợp thứ nhất và thứ hai xảy ra với mỗi hai nửa phần bầu trời còn lại.

Thời gian

Khoảng thời gian giữa một đỉnh điểm trên và đỉnh điểm trên kế tiếp là gần 24 tiếng, trong khi thời gian giữa một đỉnh điểm trên và một đỉnh điểm dưới gần bằng 12 tiếng. Chuyển động trên quỹ đạo, chuyển động tự quay và chuyển động riêng của Trái Đất ảnh hưởng đến thời gian giữa hai đỉnh điểm trên liên tiếp. Do chuyển động riêng và không riêng của Mặt Trời, một ngày mặt trời (khoảng thời gian giữa hai đỉnh điểm cùng loại liên tiếp của Mặt Trời) dài hơn một chút so với một ngày theo sao (khoảng thời gian giữa hai đỉnh điểm cùng loại liên tiếp của một ngôi sao bất kỳ). Sự sai khác trung bình giữa hai loại ngày là , bởi Trái Đất cần 365.24219 để hoàn thành một vòng quỹ đạo quanh Mặt Trời.

Mặt Trời

nhỏ|228x228px|Hiện tượng ban đêm vùng cực tại Nordkinnhalvøya, Na Uy. Mặt Trời không mọc lên trên đường chân trời dù đang ở đỉnh điểm trên lúc giữa trưa. Nhìn từ vùng nhiệt đới và vĩ độ trung, Mặt Trời có thể thấy được trên bầu trời lúc đỉnh điểm trên (trưa mặt trời) và không thấy được (ở dưới chân trời) lúc đỉnh điểm dưới (lúc nửa đêm mặt trời). Khi quan sát từ vùng địa cực nơi nằm phía trong các vòng cực gần ngày đông chí của bán cầu ở đó (điểm chí tháng 12 ở Bắc Cực và điểm chí tháng 6 ở Nam Cực), Mặt Trời ở dưới chân trời ở cả hai đỉnh điểm trong ngày.

Giả sử xích vĩ của Mặt Trời là +20° khi nó cắt qua kinh tuyến địa phương, thì góc phụ tương ứng là 70° (góc từ Mặt Trời đến thiên cực) được cộng/trừ vào vĩ độ của người quan sát (bằng độ cao của thiên cực) để tìm độ cao của Mặt Trời ở đỉnh điểm trên và dưới tương ứng.

  • Ở 52 độ Bắc, đỉnh điểm trên ở cao 58 độ trên đường chân trời tại phía nam, trong khi đỉnh điểm dưới là 18 độ phía dưới chân trời tại phía bắc. (tính toán cụ thể đỉnh điểm trên: 52° + 70° = 122°, góc phụ là 58°, và đỉnh điểm dưới: 52° − 70° = −18°).
  • Ở 80 độ Nam, đỉnh điểm trên là 30 độ phía trên đường chân trời phía nam, đỉnh điểm dưới là 10 độ dưới chân trời (đêm trắng) phía bắc.

Các sao quanh cực

Nhìn từ phần lớn Bắc Bán cầu, Polaris (sao Bắc Cực) và những ngôi sao khác của chòm sao Ursa Minor quay tròn ngược chiều kim đồng hồ xung quanh thiên cực bắc và có thể thấy được tại cả hai đỉnh điểm (nếu bầu trời trong mây và đủ tối). Ở Nam Bán cầu không có sao cực Nam đủ sáng, nhưng chòm sao Nam Cực quay tròn theo chiều kim đồng hồ quanh thiên cực Nam và có thể quan sát được tại cả hai đỉnh điểm.

Các thiên thể luôn ở trên đường chân trời trong suốt quá trình chuyển động biểu kiến của chúng trong một ngày, quan sát ở vĩ độ của người quan sát, được gọi là sao quanh cực (circumpolar).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|247x247px|Đỉnh điểm (_culmination_) của một ngôi sao là khi đường chuyển động biểu kiến hàng ngày của nó cắt đường kinh tuyến (_meridian_) nơi quan sát. Trong thiên văn học quan sát, **đỉnh điểm** hay
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
thumb|[[Cỗ máy Antikythera|Máy Antikythera là một chiếc máy tính analog trong khoảng thời gian từ 150TCN đến 100TCN được thiết kế để tính toán vị trí của các vật thể thiên văn]] **Thiên văn học
**Khoảng cách Trái Đất – Mặt Trăng** tức thời, hay **khoảng cách tới Mặt Trăng**, là khoảng cách từ tâm của Trái Đất đến tâm của Mặt Trăng. **Khoảng cách Mặt Trăng** (ký hiệu: **LD**
thumb| Một tấm Babylon ghi lại [[sao chổi Halley vào năm 164 TCN]] **Thiên văn học Babylon** là nền thiên văn học gồm các nghiên cứu hay ghi chép của các vật thể vũ trụ
Trong thiên văn học, một **kỷ nguyên** là một khoảng thời gian, dùng như là một điểm tham chiếu cho một số lượng các sự kiện thiên văn có thời gian khác nhau, như các
**Thiên văn học Maya** là những nghiên cứu về Mặt Trăng, hành tinh, Ngân Hà, Mặt Trời và những sự xuất hiện thiên văn khác được thực hiện bởi văn minh Maya. Đặc biệt là
thumb|[[Mặt Trời mọc chiếu sáng căn buồng bên trong Newgrange, Ireland, hiện tượng mà chỉ diễn ra vào thời khắc đông chí.]] **Cổ thiên văn học** (thuật ngữ tiếng Anh: **Archaeoastronomy**) là liên ngành hoặc
**Hipparchus xứ Nicaea** (; , _Hipparkhos_;  TCN) là một nhà thiên văn học, nhà địa lý và nhà toán học người Hy Lạp. Ông được coi là người sáng lập ra lượng giác học, nhưng
thumb|Một trang từ [[lịch Hindu vào năm 1871-1872.]] **Thiên văn học Ấn Độ** có một lịch sử kéo dài từ thời tiền sử cho đến thời hiện đại. Một vài nguồn gốc sớm nhất của
thumb|Tinh vân Carina trong ánh sáng hồng ngoại do Wide Field Camera 3 trên [[Kính viễn vọng không gian Hubble chụp.]] **Thiên văn học hồng ngoại** là một nhánh của thiên văn học và vật
phải|[[Galileo Galilei thường được cho là cha đẻ của ngành Thiên văn học hiện đại.]] Một **nhà thiên văn học** là một nhà khoa học, chuyên nghiên cứu các thiên thể như các hành tinh,
**Thiên văn học lý thuyết** là việc sử dụng các hình mẫu phân tích vật lý và hóa học để mô tả các đối tượng thiên văn và hiện tượng thiên văn. Almagest, tác phẩm
right|thumb|Biểu đồ từ [[trần thiên văn của lăng mộ Senemut|lăng mộ của Senemut, triều đại thứ 18]] **Thiên văn học Ai Cập** bắt đầu từ thời tiền sử, trong Ai Cập cổ đại. Vào thiên
thế=An angle ε is drawn between two straight lines from Earth to the Sun, and from Earth to the planet. This is demonstrated for different positions along circular orbits, both for planets closer to the
nhỏ|Kinh tuyến trên thiên cầu. **Kinh tuyến trên** của một người quan sát, một hình bán nguyệt, đi qua thiên đỉnh của họ và các điểm phía bắc và phía nam của đường chân trời
phải|Sao Mộc có ảnh hưởng lớn đến nhiễu loạn hấp dẫn đối với các sao chổi. **Nhiễu loạn hấp dẫn** là các thay đổi nhỏ trong chuyển động của thiên thể, trên quỹ đạo quanh
**Đơn vị thiên văn** (ký hiệu: au) là một đơn vị đo chiều dài, xấp xỉ bằng khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời. Tuy nhiên, bởi vì khoảng cách này thay đổi khi
phải|[[Siêu tân tinh Kepler]] **Vật lý thiên văn** là một phần của ngành thiên văn học có quan hệ với vật lý ở trong vũ trụ, bao gồm các tính chất vật lý (cường độ
**Đài thiên văn phía Nam của Châu Âu** (tiếng Anh: _European Southern Observatory_ (ESO), tiếng Pháp: _Observatoire européen austral_), tên chính thức là **Tổ chức Nghiên cứu thiên văn châu Âu tại Nam Bán cầu**
Trong thiên văn học, **hệ tọa độ thiên văn** là một hệ tọa độ mặt cầu dùng để xác định vị trí biểu kiến của thiên thể trên thiên cầu. Trong tọa độ Descartes, một
**Đài thiên văn vô tuyến quốc gia (National Radio Astronomy Observatory- NRAO)** là một Trung tâm nghiên cứu và phát triển được tài trợ liên bang của Quỹ khoa học quốc gia Hoa Kỳ hoạt
:_Bài này nói về khoảng thời gian được sử dụng trong thiên văn.
Đối với năm trong lịch Julius, xem bài Lịch Julius._ Trong thiên văn học, **năm Julius** là đơn vị đo thời gian
**Trắc địa thiên văn học** hay **trắc địa thiên văn** là việc áp dụng các phương pháp thiên văn vào các mạng lưới và các dự án kỹ thuật của trắc địa. Các chủ đề
**Năm Thiên văn Quốc tế 2009** (tiếng Anh: **_The International Year of Astronomy 2009_** - IYA2009) là một sự kiện toàn cầu được Hiệp hội thiên văn quốc tế phối hợp cùng UNESCO tổ chức.
nhỏ|Video về các [[pha Mặt Trăng và sự bình động trong năm 2019 ở Bắc Bán Cầu theo các khoảng giờ, với nhạc nền, chú thích, và đồ họa bổ sung.]] Trong thiên văn học
Trong thiên văn học, **xuân phân** là một trong hai vị trí trên thiên cầu mà tại đó hoàng đạo giao với đường xích đạo thiên thể. Mặc dù có hai giao điểm của hoàng
350x350px|thumb|Logo chính thức của Kính thiên văn Chân trời sự kiện **Kính thiên văn Chân trời sự kiện** (tiếng Anh: **E**vent **H**orizon **T**elescope, **EHT**) là một dự án và là chương trình quan sát thiên
**Văn học** (chữ Hán: 文學) theo cách nói chung nhất, là bất kỳ tác phẩm nào bằng văn bản. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, thì văn học là dạng văn bản được coi là một
**Đài thiên văn Steward** là bộ phận nghiên cứu của Khoa Thiên văn học tại Đại học Arizona (UA). Các văn phòng của nó được đặt trong khuôn viên UA ở Tucson, Arizona (Mỹ). Được
**Kính thiên văn Không gian James Webb** (**JWST**), trước đó gọi là **Kính thiên văn không gian thế hệ tiếp theo** (**NGST**), là một kính viễn vọng không gian đã được chế tạo và đã
Biểu đồ chỉ ra mối quan hệ giữa [[thiên đỉnh, thiên để và các kiểu khác nhau của đường chân trời. Lưu ý là thiên để luôn ngược lại với thiên đỉnh.]] Trong thiên văn
**Vật lý hạt thiên văn** là một nhánh của vật lý hạt chuyên nghiên cứu các hạt cơ bản có nguồn gốc thiên văn và mối quan hệ của chúng trong vật lý thiên văn
nhỏ| Một trong hai chiếc đồng hồ góc theo sao còn sót lại được biết đến trên thế giới. Nó được làm cho Ngài George Shuckburgh-Evelyn. Nó được trưng bày trong [[Đài thiên văn Hoàng
**Đài thiên văn** **Tadeusz Banachiewicz trên Lubomir** - một đài quan sát thiên văn được đưa vào sử dụng vào năm 2007 trên đỉnh núi Lubomir gần làng Węglówka, trong đô thị Wiśniowa, ở đảo
Triết gia [[Platon|Plato, tượng tạc bởi Silanion]] **Khoa học nhân văn** (), còn được gọi là **nhân văn học**, là các ngành học nghiên cứu về văn hóa con người, sử dụng các phương pháp
**Đài thiên văn Núi Wilson** (MWO) là đài quan sát thiên văn ở Hạt Los Angeles, California, Hoa Kỳ. MWO nằm trên Núi Wilson, một đỉnh cao ở dãy núi San Gabriel gần Pasadena, phía
**Năm thiên văn**, hay **năm sao** hay **năm theo sao** là khoảng thời gian trung bình để Mặt Trời trở lại cùng một vị trí khi so sánh với các ngôi sao của bầu trời.
**Văn học tiếng Latinh** hay **văn học Latin/Latinh** bao gồm các bài tiểu luận, lịch sử, thơ ca, kịch và các tác phẩm khác được viết bằng ngôn ngữ Latinh. Sự khởi đầu của văn
**Sao Thiên Lang** hay **Thiên Lang tinh** là ngôi sao sáng nhất trên bầu trời đêm với cấp sao biểu kiến là -1,46. Tên gọi theo định danh Bayer của sao Thiên Lang là **α
thumb|[[Thiên hà Chong Chóng, một thiên hà xoắn ốc điển hình trong chòm sao Đại Hùng, có đường kính khoảng 170.000 năm ánh sáng và cách Trái Đất xấp xỉ 27 triệu năm ánh sáng.]]
Niềm tin về tương ứng giữa quan sát thiên văn và các sự kiện trên Trái đất trong học Tử vi đã ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong lịch sử nhân loại, bao gồm
phải|nhỏ|350x350px|Biểu đồ Euler biểu diễn các loại thiên thể trong Hệ Mặt Trời. Liên minh Thiên văn Quốc tế (IAU) đã định nghĩa vào tháng 8 năm 2006 rằng, trong Hệ Mặt Trời, một hành
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
Chiêm tinh học bao gồm một số hệ thống niềm tin được cho rằng có một mối quan hệ giữa các hiện tượng thiên văn và các sự kiện hay đặc điểm nhân cách trong
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
**Văn học Việt Nam thời Tiền Lê** được nhiều nhà nghiên cứu xem là giai đoạn sơ khởi của nền văn học viết Việt Nam (để phân biệt với văn học dân gian, văn học
Cùng điểm quỹ đạo được ký hiệu bằng chữ **P** và chữ **A** trên quỹ đạo elíp của hình vẽ. Trong thiên văn học, một **củng điểm quỹ đạo**, gọi ngắn gọn là **củng điểm**
nhỏ|Hình ảnh chụp vào [[Tháng bảy|tháng 7 năm 1997 cho thấy sao sáng Aldebaran vừa xuất hiện trở lại ở phần bóng tối của trăng lưỡi liềm sau khi bị che khuất vào vài phút