✨Đàm Văn Ngụy

Đàm Văn Ngụy

Đàm Văn Ngụy (1927 – 2015), bí danh Văn Chung, là một tướng lĩnh, sĩ quan cấp cao, quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân năm 1944, từng giữ các chức vụ Sư đoàn trưởng các Sư đoàn 1, Sư đoàn 7, Sư đoàn 316, Phó Hiệu trưởng Quân sự Trường Sĩ quan Chính trị Quân sự, Tư lệnh Quân khu 1. Ông tham gia các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, và chiến tranh biên giới 1979.

Ngoài ra ông còn là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, VII, Đại biểu Quốc hội khóa VIII và IX. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Quân công hạng Nhì, Ba.

Thân thế và sự nghiệp

Ông là người dân tộc Tày, sinh ngày 1 tháng 5 năm 1927 tại xã Xuất Tính (nay là xã Minh Khai), huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.

Tham gia Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

Được các cán bộ Việt Minh, từ tháng 7 năm 1942, ông tham gia làm liên lạc dẫn đường, tiếp tế nuôi cán bộ Việt Minh hoạt động bí mật ở địa phương khi mới 14 tuổi. Nhiều lần ông cùng với du kích tham gia chiến đấu bảo vệ cán bộ, cõng những cán bộ đau ốm vào ẩn giấu trong rừng tránh sự lùng bắt của chính quyền thực dân Pháp.

Tuy được triệu tập dự lớp huấn luyện thành lập những mãi đến tháng 1 năm 1945, ông mới gia nhập Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1945, ông tham gia giành chính quyền cho Việt Minh tại Thất Khê, Na Sầm và trở thành phụ tá cho ông Phùng Hữu Tài trong khóa huấn luyện cấp tốc, đào tạo cán bộ Việt Minh tại Thất Khê.

Sau khi Vệ quốc đoàn được tổ chức chính quy hóa, Chi đội Lạng Sơn trở thành Trung đoàn 28, ông Phùng Thế Tài được phân công làm Trung đoàn trưởng. ông được phân công làm cán bộ tiểu đội, trung đội, Tiểu đoàn 2, thuộc trung đoàn này.

Tham gia kháng chiến chống Pháp

Năm 1946, trong trận phòng ngự ở Đồng Đăng, Lạng Sơn, ông chỉ huy tiểu đội chiếm một mỏm núi ở đầu phố, chặn giữ đối phương cho các đơn vị và cơ quan địa phương Việt Minh rút ra ngoài, đánh lui bốn đợt phản kích của đối phương. Cuối năm đó, một lần nữa ông chỉ huy tiểu đội đánh cản và rút sau cùng ở Cơn Pheo (Lạng Sơn) để trung đội thoát khỏi vòng vây.

Tháng 4 năm 1947, đơn vị ông phục kích đánh đoàn xe quân sự Pháp ở Bó Củng (Lũng Vài). Ông trực tiếp dẫn tiểu đội xung phong dùng lựu đạn diệt xe thiết giáp đối phương. Tháng 9 năm 1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và chính thức trở thành Đảng viên tháng 3 năm 1948.

Đến tháng 8 năm 1949, một lần nữa đơn vị ông phục kích đoàn xe quân sự Pháp ở Lũng Vài. Ông lại dẫn trung đội xung phong, đánh chia cắt đội hình phía sau, gây rối loạn, tạo điều kiện cho đơn vị tiến công diệt nhiều xe và lính Âu Phi.

Tháng 8 năm 1949, Trung đoàn 174, còn gọi là trung đoàn Cao – Bắc – Lạng, ra đời. Ông được điều động làm cán bộ trung đội thuộc Tiểu đoàn 249 của trung đoàn này. Từ tháng 7 năm 1952 đến tháng 1 năm 1953, ông được phân công theo học Khóa 7 Trường Lục quân Việt Nam, rồi trở về được phân công làm Đại đội phó, rồi Đại đội trưởng Trung đoàn 176, Đại đoàn 316.

Tháng 1 năm 1953, đơn vị ông đang di chuyển đội hình để bao vây tiến công Nà Sản (Sơn La) thì bị một đại đội biệt kích Pháp tập kích vào bộ phận quân y phía sau. Ông trên cương vị quản trị trưởng, đã nhanh chóng tập hợp và tổ chức anh em luồn rừng truy kích biệt kích hơn 6 tiếng đồng hồ, diệt 14 biệt kích quân Pháp.

Thu Đông 1953-1954, ông là cán bộ chỉ huy đại đội, đánh nhiều trận tiễu phỉ ở biên giới Việt - Lào, diệt được nhiều toán phỉ, bảo đảm an ninh biên giới, đồng thời vận động 70 lính phỉ buông súng trở về.

Từ tháng 6 năm 1954, ông được thăng làm Tiểu đoàn phó. Ngày 7 tháng 5 năm 1956, ông được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Khi đó, ông là Tiểu đoàn phó, phụ trách Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11, Trung đoàn 176, Đại đoàn 316, Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam.

Tháng 3 năm 1957, ông được phân công theo học Trường Quân sự Trung cao Nam Kinh (Trung Quốc). Từ tháng 2 năm 1960, ông được bổ nhiệm là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 316, đầu năm 1962, tham gia chiến đấu tại Mặt trận Thượng Lào, hàm Đại úy.

Năm 1964, khi Lữ đoàn 316 được nâng lên cấp sư đoàn, ông được phân công chức vụ Trung đoàn phó. Tháng 10 năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 174, Sư đoàn 316, hàm Thiếu tá.

Tham gia kháng chiến chống Mỹ

Từ tháng 3 năm 1967, ông cùng Trung đoàn 174 được điều động vào Nam tham chiến tại Chiến trường Tây Nguyên, trở thành nòng cốt để thành lập Sư đoàn 1, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tháng 7 năm 1968, ông chỉ huy trung đoàn tham gia đợt 3 tổng tiến công tại chiến trường Tây Ninh - Dầu Tiếng. Tháng 10 năm 1968, trung đoàn hành quân về Phước Long củng cố và được biên chế vào đội hình của Sư đoàn 5, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, vẫn do ông làm Trung đoàn trưởng, rồi Sư đoàn phó Sư đoàn 5.

Đầu năm 1972, ông được bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, chỉ huy sư đoàn tham gia Chiến dịch Nguyễn Huệ

Tháng 10 năm 1973, ông được điều trở ra Bắc, làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 316 với hàm Thượng tá. Ông được thăng hàm Đại tá chỉ 1 năm sau đó.

Đầu năm 1975, ông và ông Nguyễn Hải Bằng (quyền sư đoàn trưởng sư đoàn 316) chỉ huy Sư đoàn 316 bí mật hành quân bằng xe cơ giới vào chiến trường Tây Nguyên, làm mũi chủ công tấn công Buôn Mê Thuột, mở màn Chiến dịch Tây Nguyên.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông chỉ huy sư đoàn phụ trách mũi tấn công Trảng Bàng, Củ Chi, chiến đấu trong đội hình của Quân đoàn 3, Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tháng 7 năm 1976, ông được phân công làm Phó hiệu trưởng quân sự Trường Sĩ quan Chính trị.

Tham gia cuộc chiến tranh biên giới phía bắc

Từ tháng 1 năm 1978, ông được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân khu 1. Ngày 16 tháng 7 năm 1979, Quân đoàn 8 (sau đổi phiên hiệu thành Quân đoàn 26), tức Binh đoàn Pắc Bó thuộc Quân khu 1 được thành lập, gồm các sư đoàn bộ binh 311, 322, 346; trung đoàn pháo binh 188; trung đoàn phòng không 814; trung đoàn công binh 522. Ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh quân đoàn và chỉ huy quân đoàn tham chiến trong Chiến tranh biên giới phía Bắc.

Sau chiến tranh, ông được thăng hàm Thiếu tướng (tháng 1 năm 1980), rồi Trung tướng (tháng 12 năm 1984).

Đến tháng 4 năm 1987, ông được thăng Tư lệnh Quân khu 1, Bí thư Đảng ủy và giữ chức vụ này đến tháng 12 năm 1996 thì nghỉ hưu.

Ông mất ngày 15/02/2015 tại Hà Nội và an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch. .

Ông là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khóa 6, 7; Đại biểu Quốc hội khóa 8, 9.

Lịch sử thụ phong quân hàm

Vinh danh

Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng:

  • Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
  • Huân chương Độc lập hạng Nhất
  • Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì, Ba.
  • Huân chương Chiến thắng hạng Ba
  • Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba
  • Huân chương Kháng chiến (chống Pháp) hạng Nhất,
  • Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất
  • Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào cũng đã trao tặng ông Huân chương Tự do hạng Nhất.

Gia đình

Con trai ông, Đàm Dũng, từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Thiếu sinh quân Quân khu I, hàm Đại tá.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đàm Văn Ngụy** (1927 – 2015), bí danh **Văn Chung**, là một tướng lĩnh, sĩ quan cấp cao, quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là một trong những đội viên
Một người mại dâm đứng đường ở Zona Norte, [[Tijuana, Baja California, México|thế=]] **Mại dâm**, hay **mua bán dâm**, là hoạt động dùng các dịch vụ tình dục ngoài hôn nhân giữa người mua dâm
**Mại dâm ở Việt Nam** là một chủ đề về hoạt động mại dâm tại Việt Nam, cũng như những quy định của pháp luật về hành vi mua bán dâm, chủ chứa, môi giới
**Ngựa vằn Grant** (Danh pháp khoa học: _Equus quagga boehmi_) là một phân loài của loài ngựa vằn đồng bằng. Chúng là phần loài nhỏ nhất trong sáu phân loài của ngựa vằn vùng đồng
nhỏ|phải|Con ngựa vằn Chapman **Ngựa vằn Chapman** (Danh pháp khoa học: _Equus quagga chapmani_) là một phân loài của loài ngựa vằn đồng bằng. Chúng giống như người họ hàng của chúng, có nguồn gốc
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
**Ngựa vằn bờm thưa** (Danh pháp khoa học: _Equus quagga borensis_) là một phân loài của ngựa vằn đồng bằng, chúng có đặc trưng so với những anh em của chúng là có một cái
**Ngựa vằn Crawshay** (Danh pháp khoa học: **_Equus quagga crawshayi_**) là một phân loài của loài ngựa vằn đồng bằng. Chúng có nguồn gốc ở miền đông Zambia, phía đông của sông Luangwa, Malawi, đông
Một [[phụ nữ bán dâm]] **Gái mại dâm**, gái bán dâm (từ bình dân là _ca ve_, _gái_, _gái đĩ_, _gái điếm_, _gái bao_, _gái "ngành"_, _"phò"_, _"gái bán hoa"_, _"gái đứng đường"_, ...) là
**Ngựa vằn Selous** (Danh pháp khoa học: _Equus quagga selousi_) là một phân loài của loài ngựa vằn đồng bằng phân bố trải rộng trên vùng đông nam châu Phi. Nó được tìm thấy chủ
thumb|Một cảnh khiêu dâm từ một bức [[bích họa của Pompeii, -50 sau Công nguyên, Bảo tàng bí mật, Napoli]] Hoạt động Mại dâm đã tồn tại trong các nền văn hóa từ thời kỳ
**Mãi dâm**, hay **mua dâm**, là hành động dùng tiền bạc, vật chất hay quyền lợi để đổi lấy các hoạt động tình dục ngoài hôn nhân. Đây là một hành động bất hợp pháp
**Mại dâm ở Nhật Bản** đã tồn tại xuyên suốt lịch sử Nhật Bản. Mặc dù Luật Phòng chống Mại dâm tuyên bố "Không cá nhân nào có thể làm mại dâm hoặc trở thành
**Ngựa vằn Nam Phi** (Danh pháp khoa học: **_Equus zebra zebra_**) là một phân loài của loài ngựa vằn núi phân bố giới hạn ở các vùng miền núi thuộc các tỉnh miền Tây và
nhỏ|289x289px|_Khuê Văn Các_ - biểu tượng của Thủ đô [[Hà Nội. Đây là nơi học sinh thường hay chụp ảnh trong những lễ tốt nghiệp]]**Văn Miếu – Quốc Tử Giám** là quần thể di tích
**Ngựa vằn hoang Hartmann** (Danh pháp khoa học: _Equus zebra hartmanni_) là một phân loài của loài ngựa vằn núi được tìm thấy ở phía nam và tây Angola và phía Tây Namibia. Ngựa vằn
**Mại dâm ở Myanmar** là bất hợp pháp. Mại dâm là một vấn đề xã hội quan tâm đặc biệt vì ảnh hưởng đến phụ nữ và trẻ em. Buôn bán phụ nữ vì mục
**Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1954** gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam:
**Nguyễn Đình Tú** là nhà văn quân đội, hiện đang công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông đã từng kinh qua các vị trí như Biên tập viên văn xuôi, Trưởng ban
**Nhà Bắc Ngụy** (tiếng Trung: 北魏朝, bính âm: běi wèi cháo, 386–535), còn gọi là **Thác Bạt Ngụy** (拓拔魏), **Hậu Ngụy** (後魏) hay **Nguyên Ngụy** (元魏), là một triều đại thời Nam Bắc triều trong
**Chiến tranh Thục – Ngụy (228–234)**, hay còn gọi là **Gia Cát Lượng Bắc phạt** hoặc **Lục xuất Kỳ Sơn** (chữ Hán: 六出祁山; bính âm: Lìuchū Qíshān), là một loạt chiến dịch quân sự của
**Bắc Tề Văn Tuyên Đế** (北齊文宣帝) (526–559), tên húy là **Cao Dương** (高洋), tên tự **Tử Tiến** (子進), miếu hiệu là Hiển Tổ, là vị hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Tề trong
nhỏ|phải|Năm 440: **Chiến tranh Lưu Tống – Bắc Ngụy** là cuộc chiến tranh quy mô thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Lưu Tống và nhà Bắc Ngụy. Cuộc chiến tranh kéo
**Văn Minh Phùng Hoàng hậu** (chữ Hán: 文明馮皇后, 441 - 17 tháng 10, 490), thường gọi là **Văn Minh Thái hậu** (文明太后) hoặc **Bắc Ngụy Phùng Thái hậu** (北魏冯太后), là Hoàng hậu của Bắc Ngụy
nhỏ|phải|Vận chuyển bò bằng xe máy qua biên giới Việt Nam-Campuchia nhỏ|phải|Chuyên chở gia cầm bằng xe máy ở Thành phố Hồ Chí Minh **Vận chuyển động vật** (_Transportation of animals_) hay **vận chuyển vật
**Bắc Ngụy Thái Vũ Đế** (chữ Hán: 北魏太武帝; 408 – 11 tháng 3, 452), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông thường được nhìn nhận
phải|nhỏ|300x300px|Hổ phân bố ở Việt Nam là [[Hổ Đông Dương, hiện loài này đang thuộc nhóm nguy cấp]] **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó
**Chiến tranh Nam Tề-Bắc Ngụy** diễn ra vào thời Nam-Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc giữa nhà Nam Tề và nhà Bắc Ngụy. Từ năm 479 đến năm 500, Nam Tề cùng Bắc Ngụy
**Đông Ngụy Hiếu Tĩnh Đế** (東魏孝靜帝) (524–552), tên húy là **Nguyên Thiện Kiến** (元善見), là hoàng đế duy nhất của triều đại Đông Ngụy, một nhà nước kế thừa triều đại Bắc Ngụy trong lịch
**Ngụy Văn hầu** (chữ Hán: 魏文侯; trị vì: 403 TCN - 387 TCN hoặc 403 TCN-396 TCN), tên thật là **Ngụy Tư** (魏斯), là vị quân chủ khai quốc của nước Ngụy - chư hầu
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Tây Ngụy** (tiếng Trung:西魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của nhà Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ miền Bắc Trung Quốc từ năm 535 tới năm 557.
**Đông Ngụy** (tiếng Trung: 東魏) là triều đại xuất hiện sau khi có sự tan rã của Nhà nước Bắc Ngụy và cai trị vùng lãnh thổ Bắc Trung Quốc từ năm 534 tới năm
**Hồ thái hậu** (chữ Hán: 胡太后, ? - 17 tháng 5, năm 528), còn thường gọi là **Linh thái hậu** (靈太后), một phi tần của Bắc Ngụy Tuyên Vũ Đế, và Hoàng thái hậu nhiếp
**Hiếu Văn U Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文幽皇后; 469 - 499), cũng gọi **Cao Tổ U hậu** (高祖幽后), là Hoàng hậu thứ hai của Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Nguyên Hoành của triều Bắc Ngụy
**Ngụy Huệ Thành vương** (chữ Hán: 魏惠成王; trị vì: 369 TCN - 319 TCN) hay 369 TCN - 335 TCN) còn gọi là **Ngụy Huệ vương** (魏惠王) hay **Lương Huệ vương** (梁惠王), tên thật là
nhỏ|Ký [[Hòa ước Trianon|Hiệp ước Trianon vào ngày 4 tháng 6 năm 1920. Albert Apponyi đứng ở giữa.
]] nhỏ|Các bộ trưởng ngoại giao của Hoa Kỳ, Anh, Nga, Đức, Pháp, Trung Quốc, Liên minh
nhỏ|phải|Một con cá mập Những hình ảnh đại diện của các con cá mập rất phổ biến trong văn hóa đại chúng ở thế giới phương Tây với một loạt những sê-ri phim ảnh trên
**Ngụy** là một từ gốc Hán trong tiếng Việt có nhiều nghĩa tùy thuộc vào chữ Hán Nôm gốc, văn cảnh và từ ghép với nó. Nghĩa thường dùng là để chỉ sự vật, sự
**Vũ Văn Thái** () (507 – 556), biệt danh là **Hắc Thát** (黑獺), tước hiệu là **An Định Văn công** (安定文公) sau được nhà Bắc Chu truy tôn là miếu hiệu Thái Tổ (太祖), thụy
**Bắc Ngụy Hiếu Trang Đế** (chữ Hán: 北魏孝莊帝; 507–531), tên húy là **Nguyên Tử Du** (), là hoàng đế thứ 11 triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được tướng Nhĩ Chu
**Vũ Văn Hộ** (, 513–572), biểu tự **Tát Bảo** (薩保), được phong tước **Tấn Quốc công** (晉國公), là một tông thân, đại thần nhiếp chính của triều đại Bắc Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Tào Ngụy** (曹魏) là một trong 3 quốc gia thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Hoa, kinh đô ở Lạc Dương. Tào Ngụy do Tào Tháo xây dựng tiền đề nhưng con trai Tào
**Tây Ngụy Văn Đế** (西魏文帝) (507–551), tên húy là **Nguyên Bảo Cự** (元寶炬), là một hoàng đế của triều đại Tây Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Năm 534, Nguyên Bảo Cự, khi đó là
Đã có nhiều lo ngại và tranh cãi liên quan đến Thế vận hội Mùa hè 2024, bao gồm những lo ngại về an ninh, vấn đề nhân quyền, và tranh cãi về việc cho
**Văn Ương** (, 238 – 291), tên là **Văn Thục** (文俶 hay 文淑 ), tự **Thứ Khiên**, tên lúc nhỏ là **Ương** , người huyện Tiếu, nước Bái , tướng lĩnh cuối Tam Quốc, đầu
**Chiến tranh Ngụy-Trung Sơn** hay **Trận Ngụy diệt Trung Sơn** (chữ Hán: 魏滅中山之戰, Hán Việt: _Ngụy diệt Trung Sơn chi chiến_), là cuộc chiến tranh diễn ra từ năm 408 TCN đến năm 406 TCN
nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm về
**Ngu Doãn Văn** (chữ Hán: 虞允文; ngày 14 tháng 12, 1110 – ngày 18 tháng 7, 1174), tự Bân Phủ (彬父), người Nhân Thọ, Long Châu , nhà văn hóa, nhà chính trị, tể tướng,
**Diễn văn Parchwitz**, còn gọi là **Diễn văn Parschwitz** là bài hiệu triệu ba quân do nhà vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ thực hiện vào cuối năm 1757 tại Parchwitz (Schlesien từ xứ