✨Đại dương Tethys

Đại dương Tethys

Pha đầu tiên trong hình thành đại dương Tethys: Biển Tethys (đầu tiên) chia [[Pangaea thành hai siêu lục địa là Laurasia và Gondwana.]]

Biển Tethys hay đại dương Tethys là một đại dương trong đại Trung Sinh nằm giữa hai lục địa là Gondwana và Laurasia trước khi xuất hiện Ấn Độ Dương.

Học thuyết lịch sử

Nữ thần Tethys,
tranh khảm bảo tàng [[Antakya, Thổ Nhĩ Kỳ]] Năm 1893, sử dụng các mẫu vật hóa thạch từ dãy núi Alps và châu Phi, Eduard Suess đã đề xuất một thuyết rằng một biển nội địa nông đã từng tồn tại giữa Laurasia và Gondwana. Ông đặt tên nó là 'Tethys sea' theo tên gọi của nữ thần biển trong thần thoại Hy Lạp là Tethys. Học thuyết về kiến tạo địa tầng sau đó đã bác bỏ hoặc gạt ra một bên nhiều phần trong học thuyết của Suess, thậm chí xác định sự tồn tại sớm hơn của một khu vực lớn chứa nước gọi là đại dương Tethys. Tuy nhiên, khái niệm tổng thể của Suess vẫn là tương đối đúng đắn và giàu sức tưởng tượng vào thời kỳ đó, vì thế nói chung ông được coi là người phát hiện ra cả biển Tethys lẫn đại dương Tethys.

Học thuyết hiện tại

Vào khoảng 250 triệu năm trước, vào cuối kỷ Permi của đại Cổ Sinh, một đại dương mới đã bắt đầu hình thành ở phần cuối phía nam của đại dương Paleo-Tethys. Một đường nứt gãy đã hình thành dọc theo thềm lục địa phía bắc của Nam Pangaea (Gondwana). Trên 60 triệu năm tiếp theo, mảnh thềm lục địa này, được biết đến như là mảng Cimmeria, di chuyển theo hướng bắc, đẩy đáy của đại dương Paleo-Tethys vào dưới phần cuối phía đông của Bắc Pangaea (Laurasia). Đại dương Tethys đã hình thành giữa Cimmeria và Gondwana, ngay phía trên nơi mà Paleo-Tethys đã từng tồn tại.

Trong kỷ Jura (150 Ma), Cimmeria cuối cùng va chạm với Laurasia. Nơi nó ngừng lại, đáy đại dương dưới nó oằn xuống, tạo thành rãnh Tethys. Mực nước dâng lên và phía tây Tethys che phủ nông các phần đáng kể của châu Âu. Vào cùng khoảng thời gian đó, Laurasia và Gondwana bắt đầu trôi dạt ra xa nhau, tạo thành Đại Tây Dương giữa chúng. Trong khoảng thời gian giữa kỷ Jura và kỷ Phấn Trắng (100 Ma), Gondwana bắt đầu tách ra, đẩy châu Phi và Ấn Độ về phía bắc, ngang qua Tethys và tạo thành Ấn Độ Dương. Do các khối đất khổng lồ này ép nó từ mọi phía, nên cho tới Hậu Miocen (15 Ma), đại dương Tethys liên tục bị co hẹp lại, trở thành biển Tethys (thứ hai).

Ngày nay, Ấn Độ, Indonesia và Ấn Độ Dương che phủ khu vực trước đây là đại dương Tethys, còn Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq, Tây Tạng, Đông Dương nằm trên Cimmeria. Cái đã từng là biển Tethys trở thành Địa Trung Hải. Các dấu tích còn lại khác là Biển Đen, biển Caspi và biển Aral (thông qua nhánh nội địa cũ được biết đến như là Paratethys). Phần lớn đáy của đại dương Tethys biến mất dưới Cimmeria và Laurasia. Con người chỉ biết tới việc Tethys đã tồn tại là nhờ các nhà địa chất như Suess đã tìm thấy các hóa thạch của các sinh vật sinh sống trong lòng đại dương có trong các lớp đá tại dãy núi Himalaya. Vì thế, người ta biết rằng các lớp đá này đã từng nằm dưới nước, trước khi thềm lục địa Ấn Độ bắt đầu bị đẩy lên khi nó va mạnh vào Cimmeria. Người ta cũng có thể thấy các chứng cứ địa chất tương tự trong kiến tạo sơn Alps của châu Âu, nơi mà chuyển động của mảng châu Phi đã nâng dãy núi Alps lên.

Các nhà cổ sinh vật học cũng nhận thấy đại dương Tethys có tầm quan trọng đặc biệt do phần lớn các thềm biển trên thế giới là nằm cạnh rìa của nó trong một gian dài như vậy. Các hóa thạch biển, đầm lầy, và cửa sông từ các thềm này có tầm quan trọng cổ sinh học đáng kể.

Thuật ngữ và phân chia

Giống như các khoa học khác, địa chất học ilà một hệ thống liên tục tiến hóa của các học thuyết, và các thuật ngữ được sử dụng để mô tả các thành hệ tiền sử khác nhau cũng biến động do có thêm nhiều học thuyết chính xác hơn nổi lên. Ví dụ, nhiều nguồn internet sử dụng "đại dương Tethys" để chỉ "biển Tethys" hay ngược lại. Một số thậm chí còn dùng sai lầm thuật ngữ biển Tethys để chỉ Đại Tây Dương đang mở rộng ra trong kỷ Jura.

Phần phía tây của đại dương Tethys gọi là biển Tethys, đại dương Tây Tethys hay đại dương Tethys Alps. Biển Đen, biển Caspi và biển Aral được coi là các tàn tích lớp vỏ (mặc dù Biển Đen trên thực tế có thể là tàn tích của đại dương Paleo-Tethys cổ hơn). Tuy nhiên, "Tây Tethys" này không đơn giản chỉ là một đại dương rộng đơn lẻ. Nó bao phủ nhiều mảng, vòng cung đảo và tiểu lục địa nhỏ kỷ Phấn Trắng. Nhiều lòng chảo đại dương nhỏ (đại dương Valais, đại dương Piemont-Liguria) được tách rời nhau bằng các chùm vỉa lục địa trên các mảng Albora, Iberia, Apulia. Mực nước biển cao trong đại Trung Sinh làm ngập lụt phần lớn lãnh thổ lục địa này tạo ra các biển nông. Trong đại Tân Sinh, các khu vực rộng lớn ở trung và đông châu Âu bị che phủ bởi nhánh phía bắc, gọi là Paratethys hay biển Pannonia, đã dần dần biến mất từ cuối thế Miocen, trở thành một biển nội địa cô lập và cuối cùng khô kiệt đi trong thế Pleistocen.

Phần phía đông của đại dương Tethys được gọi tương tự là Đông Tethys.

Khi các học thuyết được hoàn thiện, các nhà khoa học đã mở rộng khái niệm "Tethys" để chỉ các đại dương tương tự tồn tại trước nó. Đại dương Paleo-Tethys, như đề cập trên đây, tồn tại từ kỷ Silur (440 Ma) qua kỷ Jura, nằm giữa chùm vỉa Hun và Gondwana (sau đó là chùm vỉa Cimmeria). Trước đó, đại dương Proto-Tethys đã tồn tại từ kỷ Ediacara (600 Ma) tới kỷ Devon (360 Ma), nằm giữa Baltica và Laurentia ở phía bắc và Gondwana ở phía nam. Không nên nhầm các đại dương Tethys này với đại dương Rhea, đã tồn tại ở phía tây chúng trong kỷ Silur.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Pha đầu tiên trong hình thành đại dương Tethys: Biển Tethys (đầu tiên) chia [[Pangaea thành hai siêu lục địa là Laurasia và Gondwana.]] **Biển Tethys** hay **đại dương Tethys** là một đại dương trong
Bản đồ đại dương Paleo-Tethys, khoảng 280 Ma. **Đại dương Paleo-Tethys** hay **đại dương Palaeo-Tethys**, **đại dương Cổ-Tethys** là một đại dương cổ đại trong đại Cổ sinh. Nó nằm giữa siêu lục địa Gondwana
**Đại dương Proto-Tethys** hay **đại dương Tiền-Tethys** là một đại dương cổ đã tồn tại vào cuối kỷ Ediacara tới kỷ Than đá (khoảng 550 tới 330 Ma). Nó là đại dương tồn tại trước
Nền móng của Avalonia tại châu Âu. **Đại dương Rheic** là một đại dương trong đại Cổ sinh, nằm giữa: * Ở phía bắc là lục địa Baltica (ngày nay là miền bắc châu Âu)
**Đại Tân sinh** (**_Cenozoic_** ; ), đọc là _sen-o-dô-íc_ có nghĩa là _sự sống mới_ (từ tiếng Hy Lạp: καινός "_kainós_" nghĩa là _mới_ và ζωή "_zōḗ_" nghĩa là _sự sống_); một số sách tiếng
right|thumb|[[Cổ địa lý học đại dương Tethys trong Rupelia tuổi (33,9–28,4 triệu năm trước). Các đường màu đen biểu thị các đường bờ biển ngày nay.]] **Biển Paratethys**, **Đại dương Paratethys** hay chỉ là **Paratethys**
**Đại Trung sinh** (**_Mesozoic_** ) là một trong ba đại địa chất thuộc thời Phanerozoic (thời Hiển sinh). Sự phân chia thời gian ra thành các đại bắt đầu từ thời kỳ của Giovanni Arduino
nhỏ|Mảng Cimmeria vẫn còn gắn với [[Gondwana. ~290 Ma (Tiền Permi)]] **Mảng Cimmeria** là một mảng kiến tạo cổ đại bao gồm các phần ngày nay thuộc Anatolia (Tiểu Á), Iran, Afghanistan, Tây Tạng, Đông
**Cimmeria** là một tiểu lục địa cổ tồn tại vào khoảng 200-300 triệu năm trước. Nó rạn nứt ở phía bắc của Gondwana trong Hậu Than đá- Tiền Permi (khoảng 300 Ma) và tiến về
**Kỷ Devon** (**kỷ Đề-vôn** hay **kỷ Đê-vôn**) là một kỷ địa chất trong đại Cổ Sinh. Nó được đặt theo tên gọi của khu vực Devon, Anh, là nơi mà các loại đá thuộc kỷ
**_Callionymus tethys_** là một loài cá biển thuộc chi _Callionymus_ trong họ Cá đàn lia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1993. ## Danh pháp khoa học _C. tethys_ được đặt
nhỏ|Đại dương màu lam nhạt bao quanh siêu lục địa [[Pangaea là Panthalassa.]] **Panthalassa** (tiếng Hy Lạp cổ: πᾶν "tất cả" và θάλασσα "đại dương"), còn gọi là **đại dương Panthalassa**, hay **Toàn Đại Dương**
nhỏ|phải|Bản đồ biển Đen **Biển Đen** hay **Hắc Hải** là một biển nội địa nằm giữa Đông Nam châu Âu và vùng Tiểu Á. Biển Đen được nối với Địa Trung Hải qua eo biển
thumb|Bản vẽ của một nghệ sĩ về một [[tiểu hành tinh cách nhau vài km va chạm vào Trái Đất. Một tác động như vậy có thể giải phóng năng lượng tương đương với vài
**Biển Bắc** (hay **Bắc Hải**), trước Thế chiến I ở Mỹ còn gọi là Đại dương Đức (_German Ocean_), là một vùng biển ở đông bắc Đại Tây Dương. Biển Bắc giáp Na Uy và
**Đường khâu nối**, hoặc gọi **đới khâu**, thuật ngữ địa chất học, là khu vực kết hợp do sự va đụng của hai mảng lục địa, là một trong những ranh giới mảng. Khi hai
Trong niên đại địa chất, **tầng Bajoci** là một bậc hoặc kỳ trong Jura giữa, kéo dài từ khoảng Ma tới ≈ Ma (Ma: Megaannum, _triệu năm trước_). Tầng Bajocy tiếp sau tầng Aaleni và
**Nền cổ Hoa Nam** hay **lục địa Hoa Nam**, **nền cổ Dương Tử** là một lục địa hay nền cổ cổ đại, bao gồm Nam và Đông nam Trung Quốc (vì thế mà có tên
Biểu đồ thang thời gian địa chất. **Lịch sử địa chất Trái Đất** bắt đầu cách đây 4,567 tỷ năm khi các hành tinh trong hệ Mặt Trời được tạo ra từ tinh vân mặt trời,
**An-pơ** (tiếng Pháp: _Alpes_, tiếng Đức: _Alpen_, tiếng Ý: _Alpi_) là một trong những dãy núi lớn nhất, dài nhất châu Âu, trải dài qua 8 quốc gia (từ tây sang đông), lần lượt là:
**Kỷ Than Đá**, **kỷ Thạch Thán** hay **Kỷ Cacbon (Carbon)** (**Carboniferous**) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, kéo dài từ khi kết thúc kỷ Devon, vào khoảng 359,2 ±
**Kỷ Silur** hay phiên âm thành **kỷ Xi-lua (Silua)** là một kỷ chính trong niên đại địa chất kéo dài từ khi kết thúc kỷ Ordovic, vào khoảng 443,8 ± 1,5 triệu (Ma) năm trước,
**Thế Pliocen** () hay **thế Pleiocen** hoặc **thế Thượng Tân** là một thế địa chất, theo truyền thống kéo dài từ khoảng 5,332 tới 1,806 triệu năm trước (Ma). Tuy nhiên, trong phiên bản 2009
**Thế Miocen** () hay **thế Trung Tân** là một thế địa chất kéo dài từ khoảng 23,03 tới 5,33 triệu năm trước (Ma). Giống như các thế địa chất khác, các tầng đá xác định
**Kỷ Cambri** ( hay ) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, bắt đầu vào khoảng 541,0 ± 1,0 triệu năm (Ma) trước vào cuối thời kỳ liên đại Nguyên
**Hẻm núi Sićevo** (tiếng Serbia: _Сићевачка клисура_) của Serbia nằm ở thung lũng sông Nišava do dòng chảy cắt qua núi đá kiến tạo nên, giữa các nhánh phía bắc của núi Suva và các
**Kỷ Jura** là một kỷ trong niên đại địa chất kéo dài từ khoảng 200 triệu năm trước, khi kết thúc kỷ Tam điệp (_Trias_) tới khoảng 146 triệu năm trước, khi bắt đầu kỷ
**Himalaya** hay **Hy Mã Lạp Sơn** là một dãy núi ở châu Á, phân chia tiểu lục địa Ấn Độ khỏi cao nguyên Tây Tạng. Mở rộng ra, đó cũng là tên của một hệ
Trong niên đại địa chất, **tầng Callove** là một bậc hoặc kỳ trong Trung Jura, kéo dài từ Ma đến Ma (Ma: Megaannum, _triệu năm trước_). Đây là tầng cuối cùng của Trung Jura, trước
**Họ Đậu** hay còn gọi **họ Cánh bướm** (danh pháp khoa học: **Fabaceae**, đồng nghĩa: **Leguminosae**,) là một họ thực vật trong bộ Đậu. Đây là họ thực vật có hoa lớn thứ ba, sau
**Pangaea** (từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "toàn bộ đất đai") hay **Toàn Lục Địa**, là siêu lục địa đã từng tồn tại trong đại Trung Sinh (_Mesozoic_) thuộc liên đại Hiển Sinh, trước
**Tầng Santon** là một kỳ trong niên đại địa chất hay một bậc trong địa tầng. Nó thuộc thế Creta muộn hoặc thống Creta trên, có niên đại kéo dài từ ~ Ma (Ma: Megaannum,
**Tầng Noria** trong niên đại địa chất là kỳ giữa của thế Trias muộn và trong phân vị địa tầng thì nó là bậc giữa của thống Trias trên. Kỳ Noria có cấp bậc của
**Tầng Hettange** trong niên đại địa chất là kỳ đầu tiên của thế Jura sớm, và trong thời địa tầng học là bậc dưới cùng của thống Jura dưới. Kỳ Hettange tồn tại từ ~
Trong niên đại địa chất, tầng **Valangin** là một bậc hay một kỳ của Creta Hạ/sớm. Nó có niên đại từ Ma đến Ma (Ma: Megaannum, _triệu năm trước_). Tầng Valangin tiếp sau tầng Berrias,
**Tầng Hauterive** trong niên đại địa chất là kỳ giữa của thế Creta sớm, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc giữa của thống Creta dưới. Kỳ Hauterive tồn tại từ ~
**Tầng Berrias** trong niên đại địa chất là kỳ đầu tiên của thế Creta sớm, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc dưới cùng của thống Creta dưới. Kỳ Berrias tồn tại
**Tầng Toarc** trong niên đại địa chất là kỳ cuối cùng của thế Jura sớm, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc trên cùng của thống Jura dưới. Kỳ Toarc tồn tại
**Tầng Oxford** trong niên đại địa chất là kỳ đầu của thế Jura muộn, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc dưới cùng của thống Jura trên. Kỳ Oxford tồn tại từ
**Tầng Bathon** trong niên đại địa chất là kỳ giữa của thế Jura giữa, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc giữa của thống Jura giữa. Kỳ Bathon tồn tại từ ~
**Tầng Kimmeridge** trong niên đại địa chất là kỳ giữa của thế Jura muộn, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc giữa của thống Jura trên. Kỳ Kimmeridge tồn tại từ ~
**Tầng Barrême** trong niên đại địa chất là kỳ ở khoảng giữa của thế Creta sớm, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc gần giữa của thống Creta dưới. Kỳ Barrême tồn
**Tầng Turon** trong niên đại địa chất là kỳ gần đầu của thế Creta muộn, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc gần dưới cùng của thống Creta dưới. Kỳ Turon tồn
**Tầng Champagne** trong niên đại địa chất là kỳ gần cuối của thế Creta muộn, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc gần trên cùng của thống Creta trên. Kỳ Champagne tồn
**Tầng Cognac** trong niên đại địa chất là kỳ giữa của thế Creta muộn, và trong thời địa tầng học thì nó là bậc giữa của thống Creta trên. Kỳ Cognac tồn tại từ ~
**Dãy núi Côn Lôn** hay **Côn Lôn sơn** (tiếng Trung phồn thể: 崑崙山, giản thể: 昆仑山, bính âm: Kūnlún Shān) là một trong những dãy núi dài nhất tại châu Á, nó trải dài trên
**Tầng Pliensbach** là một kì trong niên đại địa chất và là một bậc trong phân vị địa tầng. Nó là một phần của thống tiền Jura hoặc thế Jura sớm kéo dài từ khoảng
**Tầng Aalen** là một phân cấp của thống/thế Trung Jura trong niên đại địa chất, kéo dài từ khoảng 175.6 Ma tới khoảng 171.6 Ma (triệu năm trước). Trước nó là Tầng Toarc và tiếp
nhỏ|phải|[[Sa thạch từ kỷ Tam Điệp.]] **Kỷ Trias** (phiên tiếng Việt: **Triat**) hay **kỷ Tam Điệp** là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 200 đến 251 triệu năm trước. Là kỷ đầu tiên
**Kỷ Phấn trắng** hay **kỷ Creta** (phiên âm tiếng Việt: **Krêta**) là một kỷ địa chất chính trong niên đại địa chất, bắt đầu từ khi kết thúc kỷ Jura khoảng 145 triệu năm trước