✨Kỷ Cambri

Kỷ Cambri

Kỷ Cambri ( hay ) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, bắt đầu vào khoảng 541,0 ± 1,0 triệu năm (Ma) trước vào cuối thời kỳ liên đại Nguyên Sinh và kết thúc vào khoảng 485,4 ± 1,9 Ma (Ma: Megaannum, triệu năm trước) với sự khởi đầu của kỷ Ordovic (theo ICS, 2018). Nó là kỷ đầu tiên của đại Cổ sinh thuộc liên đại Hiển Sinh. Kỷ Cambri là kỷ sớm nhất mà trong các lớp đá của thời kỳ đó người ta tìm thấy một lượng lớn các sinh vật đa bào đã hóa thạch một cách rõ ràng, chúng phức tạp hơn so với hải miên (bọt biển, ngành Porifera) hay sứa (phân ngành Medusozoa). Trong thời gian này, khoảng 50 nhóm sinh vật chính tách biệt hay "ngành" đã xuất hiện một cách đột ngột, trong phần lớn các trường hợp là không có tổ tiên một cách rõ ràng (đối với kiến thức khoa học hiện nay). Sự bùng nổ các ngành này được nói đến như là sự bùng nổ kỷ Cambri.

Phân chia

Kỷ Cambri diễn ra sau đại Tân Nguyên Sinh và trước kỷ Ordovic. Kỷ Cambri trước đây được chia thành 3 thế - là Cambri sớm (Cambri hạ, Caerfai hay Waucoban), Cambri giữa (Cambri trung St. Davids hay Albertian) và Cambri muộn/thượng (Merioneth hay Croixan) hay như hiện nay trong địa tầng học là 4 thống - là thống Terreneuve (tương đương với Cambri sớm), thống 2 và thống 3 chưa đặt tên (tương đương Cambri giữa) và thống Phù Dung (tương đương Cambri muộn).

Mỗi thống hiện tại được chia ra thành 2-3 tầng, làm cho kỷ Cambri có 10 tầng. Tuy nhiên, vào thời điểm tháng 8 năm 2008 chỉ có 3 tầng là tầng Fortune (năm 1992), tầng Bài Bích (2003) và tầng Drum (2006) là được ICS công nhận. Các tầng khác hiện vẫn chưa được đặt tên. Tầng Cổ Trượng là tên gọi dự kiến được thông qua năm 2009. Bên cạnh đó, các tầng 5 và 9 dự kiến sẽ có tên gọi trong năm 2008; các tầng 3, 4, 10 dự kiến sẽ có tên gọi trong năm 2009 còn tầng 2 thì hiện tại vẫn chưa quyết định sự kiện chỉ dẫn là gì. (Nguồn: [http://www.stratigraphy.org/ ICS]).

Ngoài ra, kỷ Cambri cũng được phân chia thành một số tầng mang tính khu vực như bảng sau, trong đó hệ thống Nga-Kazakhstan được sử dụng nhiều nhất trong các văn bản quốc tế:

Niên đại của kỷ Cambri

Khoảng thời gian của kỷ Cambri về mặt kinh điển được cho là từ khoảng 500 Ma tới khoảng 570 Ma. Ranh giới dưới (sớm) của kỷ Cambri theo truyền thống được thiết lập khi có sự xuất hiện sớm nhất của các loại động vật chân đốt (ngành Arthropoda) nguyên thủy được biết đến như là bọ ba thùy (lớp Trilobita) và các dạng động vật nguyên thủy tựa như san hô sừng, được biết đến như là Archaeocyatha. Sự kết thúc của kỷ này cuối cùng được thiết lập theo sự thay đổi tương đối rõ ràng trong hệ động vật mà hiện nay đã xác định như là sự kiện tuyệt chủng. Các khám phá hóa thạch và xác định niên đại bằng phóng xạ trong khoảng 25 năm cuối thế kỷ 20 đã đưa các số liệu thời đại này vào trong câu hỏi. Sự chênh lệch về thời gian lên tới 20 triệu năm là phổ biến giữa các học giả. Khoảng thời gian khoảng 545 đến 490 Ma đã được tiểu ủy ban quốc tế về địa tầng học toàn cầu đưa ra gần đây vào năm 2002.

Dữ liệu xác định niên đại bằng phóng xạ từ New Brunswick đã đặt sự kết thúc của kỷ này vào khoảng 511 Ma. Kết quả này bỏ lại khoảng 21 triệu năm cho hai giai đoạn khác của kỷ Cambri.

Dữ liệu niên đại chính xác hơn 542 ± 0,3 Ma cho sự kiện tuyệt chủng vào đầu kỷ Cambri đã được đưa ra gần đây. Cơ sở hợp lý cho niên đại chính xác này là một điều thú vị do nó là một hình mẫu của nguyên lý suy diễn cổ sinh vật học. Ở ranh giới của kỷ Cambri, một cách chính xác là đã có sự suy giảm rõ nét trong mức độ phổ biến của đồng vị C13, một 'đường đảo ngược' mà các nhà cổ sinh vật học gọi là sự lệch hướng. Một điều cũng khá phổ biến là nó lại là chỉ số tốt nhất về vị trí của ranh giới tiền Cambri-Cambri trong các lớp địa tầng với niên đại xấp xỉ như vậy. Một trong những khu vực mà sự lệch hướng của cacbon-13 đã được biết rất rõ này diễn ra tại Oman. Amthor (2003) miêu tả các chứng cứ từ Oman đã chỉ ra sự lệch hướng của đồng vị cacbon có liên quan đến sự tuyệt chủng hàng loạt: Sự biến mất các hóa thạch rõ ràng từ thời tiền Cambri trùng khớp một cách chính xác với các bất thường của cacbon-13. Một điều may mắn là tại các lớp đá Oman, cũng như từ các lớp tro núi lửa mà từ đó dựa trên đồng vị của ziricon người ta đã đưa ra niên đại khá chính xác là 542 ± 0,3 Ma (tính toán trên tỷ lệ phân rã urani thành chì). Niên đại mới và chính xác này phù hợp với niên đại ít chính xác hơn đối với các dị thường của cacbon-13, thu được từ các lớp đá tại Siberia và Namibia. Các dữ liệu này có lẽ sẽ được chấp nhận như là niên đại chính xác cuối cùng cho giai đoạn bắt đầu của thời Hiển sinh (Phanerozoic), và vì thế là sự bắt đầu của đại Cổ sinh và kỷ Cambri.

Cổ địa lý học kỷ Cambri

Các lục địa trong kỷ Cambri được cho là kết quả từ sự vỡ ra của siêu lục địa trong đại Tân Nguyên Sinh là Pannotia. Nước trong thời kỳ thuộc kỷ Cambri dường như là trải rộng và nông. Gondwana vẫn là siêu lục địa lớn nhất sau khi Pannotia vỡ ra. Người ta cũng cho rằng khí hậu thời kỳ này là nóng hơn một cách đáng kể so với thời gian trước đó, thời gian mà Trái Đất hứng chịu các thời kỳ băng hà mạnh đã được coi như là sự đóng băng Varanger (kỷ Thành băng). Bên cạnh đó đã không có sự đóng băng tại hai địa cực. Tỷ lệ trôi dạt lục địa trong kỷ Cambri có thể là cao bất thường. Laurentia, Baltica và Siberia vẫn là các lục địa độc lập kể từ khi Pannotia vỡ ra. Gondwana bắt đầu trôi dạt về phía cực Nam. Panthalassa che phủ phần lớn Nam bán cầu, các đại dương nhỏ có đại dương Proto-Tethys, đại dương Iapetus và đại dương Khanty, tất cả chúng đều mở rộng trong thời gian này.

Động vật kỷ Cambri

nhỏ|Hóa thạch bọ ba thùy ([[Trilobita) Redlichia chinensis kỷ Cambri tại Trung Quốc.]] Bên cạnh một số dạng sự sống bí ẩn mà có thể coi là động vật hoặc không là động vật, tất cả các ngành động vật hiện đại trong bất kỳ mẫu hóa thạch nào có thể đề cập tới, ngoại trừ ngành Bryozoa, dường như đều có các đại diện trong kỷ Cambri. Tất cả chúng, ngoại trừ hải miên (Porifera), dường như có sự khởi đầu chỉ ngay sau hoặc ngay trước khi bắt đầu kỷ này. Tuy nhiên, một vài ngành hiện đại, chủ yếu là các ngành với thân nhỏ hoặc mềm, không có mẫu hóa thạch trong kỷ Cambri. Nhiều ngành động vật đã tuyệt chủng, kỳ cục và có quan hệ không rõ ràng với các động vật khác, cũng xuất hiện trong kỷ Cambri. Sự xuất hiện dường như là "bất ngờ" của hệ động vật đa dạng trong một khoảng thời gian không quá vài chục triệu năm này được coi là "Sự bùng nổ kỷ Cambri".

Qua nghiên cứu các hóa thạch đã được tìm thấy, các nhà khoa học đã dựng lại khung cảnh sống và nguồn thực phẩm của cá động vật kỉ Cambri, phân chúng thành 4 nhóm:

  • Nhóm thu thập và ăn các chất lắng tụ dưới đáy biển, chiếm 60% tổng số cá thể, chủ yếu là các loài Chân khớp như Bọ ba thùy.
  • Nhóm sống bằng cách thu gom và nuốt các chất lắng tụ, chiếm 1%, chủ yếu là các loài Thân mềm có một phần vỏ cứng.
  • Nhóm sống bằng các chất lơ lửng trong nước, chiếm 30%, chủ yếu là các loài Bọt biển.
  • Nhóm ăn thịt, chiếm 10%, chủ yếu là các loài Chân khớp.

Có thể nói trong kỷ Cambri các loài Chân khớp phát triển hết sức đa dạng, theo ước tính có thể lên đến 20 nhóm, không như ngày nay chỉ còn 4 nhóm là Côn trùng, Giáp xác, Nhện và nhóm Nhiều chân (Đa túc). Phổ biến nhất là Tôm ba lá (còn gọi là Trùng tam điệp hay Bọ ba thùy), vì thế các nhà khoa học còn gọi kỷ Cambri là "thời đại Bọ ba thùy" và hóa thạch bộ ba thùy là hóa thạch chỉ thị cho kỷ Cambri. Bộ ba thùy có nhiều hình thức sống khác nhau. Có loại sống gần mặt biển, có loại sống ở tầng nước giữa, cóa loại sống ở tầng đáy. Các nhà khoa học đã tìm thấy hơn 10.000 loài bọ ba thùy khác nhau, có kích thước trung bình từ 3 – 42 cm, cá biệt có con dài đến 75 cm. Cấu tạo cơ thể chúng gồm đầu và thân, chia ra thành nhiều đốt, xếp chồng như mái ngói giúp cho bọ ba thùy có thể cuộn tròn một cách dễ dàng. Ở một vài loài, các đốt cuối liền với nhau tạo thành cái đuôi. Và giống như các loài Chân khớp khác, bộ ba thùy mỗi lần lớn lên thì chúng phải lột xác và phải một thời gian sau thì vỏ mới cứng lại. Loài Deiphon có nhiều chân bơi lội một cách nhẹ nhàng trên đáy đại đương, loài Encrinurus thì có mắt lồi sống ở tầng đáy, loài Calymene khi gặp nguy hiểm thì cuộn tròn mình lại, còn loài Trimerus thì có đời sống chuyên vùi mình xuống bùn,....

Khu vực được nghiên cứu kỹ nhất mà tại đó các phần mềm của các sinh vật hóa thạch nằm trong đá phiến sét Burgess ở British Columbia, Canada. Chúng đại diện cho các địa tầng thời Cambri giữa và cung cấp nhiều thông tin cho con người về sự đa dạng động vật thời kỳ đó. Các hệ động vật tương tự lần lượt sau đó cũng được tìm thấy tại nhiều khu vực khác - quan trọng nhất là trong các lớp đá phiến sét giai đoạn Cambri sớm tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (xem đá phiến sét Trừng Giang). Các hệ động vật thời kỳ tiền Cambri thuộc kỷ Ediacara cũng đã được nhận dạng trong 50 năm qua, nhưng quan hệ của chúng với các dạng sự sống động vật kỷ Cambri là hoàn toàn mờ mịt.

Một số ngành động vật sống tại kỷ Cambri

  • Chordata (một số loài cá tiền sử như Haikouichthys và Myllokunmingia)
  • Vetulicolia
  • Saccorhytida (540 triệu năm trước vào Tầng Fortune)
  • Lobopodia
  • Arthropoda (nhiều nhất là bọ ba thùy)
  • Porifera

Tên gọi

Cambri là tên gọi lấy theo Cambria, tên gọi cũ của Wales, khu vực mà các loại đá thuộc kỷ này đã được nghiên cứu lần đầu tiên.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kỷ Cambri** ( hay ) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, bắt đầu vào khoảng 541,0 ± 1,0 triệu năm (Ma) trước vào cuối thời kỳ liên đại Nguyên
nhỏ|Một số loài động vật trong kỷ Cambri **Bùng nổ kỷ Cambri** là sự xuất hiện một cách tương đối nhanh chóng hầu hết các ngành động vật chính được ghi nhận lại từ các
**Tầng 2** của kỷ Cambri là tên không chính thức của tầng dưới thống Terreneuve. Nó nằm trên tầng Fortune và dưới tầng 3 của kỷ Cambri. Nó thường được gọi là tầng **Tommote**, dựa
**Tầng 3** là tên gọi không chính thức của tầng thứ 3 thuộc kỷ Cambri. Nó tiếp sau tầng 2 và đứng trước tầng 4, mặc dù cả đỉnh và đáy của nó đều chưa
**Tầng 4** là tên gọi không chính thức của tầng thứ 4 thuộc kỷ Cambri và là tầng trên cùng của thống 2. Nó tiếp sau tầng 3 và đứng trước tầng 5. Đáy của
**Thống 2** trong niên đại địa chất là thế giữa của kỷ Cambri, và trong thời địa tầng học là thống giữa của thuộc hệ Cambri. Thế Cambri 2 tồn tại từ ~ Ma đến
Phân bố lục địa trong Trung Cambri, khoảng 514 triệu năm trước. **Cambri trung** hay **Cambri giữa** (còn gọi là **thế Alberta**, **thế Acadia**, **thế St. David** hay **thế Saint David**) là một thế địa
**Thời kỳ Tiền Cambri** hay **Tiền kỷ Cambri** (tiếng Anh: _Precambrian_ hay _Pre-Cambrian_) là tên gọi không chính thức để chỉ một siêu liên đại, bao gồm một số liên đại trong niên đại địa
thumb|left **Kỷ Ordovic** (phiên âm tiếng Việt: **Ocđôvic**) là kỷ thứ hai trong số sáu (bảy tại Bắc Mỹ) kỷ của đại Cổ Sinh. Nó diễn ra sau kỷ Cambri và ngay sau nó là
**Kỷ Silur** hay phiên âm thành **kỷ Xi-lua (Silua)** là một kỷ chính trong niên đại địa chất kéo dài từ khi kết thúc kỷ Ordovic, vào khoảng 443,8 ± 1,5 triệu (Ma) năm trước,
**Kỷ Ediacara** là một kỷ địa chất trong đại Tân Nguyên Sinh. Nó là kỷ thứ ba đồng thời là kỷ cuối cùng của đại này cũng như của thời kỳ Tiền Cambri. Kỷ này
:_Permi cũng là tên gọi khác cho phân nhóm ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Permi_ **Kỷ Permi (Nhị Điệp)** là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 298,9 ± 0,15 triệu năm trước
Những biến đổi về [[Cacbon điôxít|CO2, nhiệt độ và bụi từ lõi băng ở trạm nghiên cứu Vostok trong 400.000 năm qua]]**Kỳ băng hà** là một giai đoạn giảm nhiệt độ lâu dài của khí
**Thống Terreneuve** là tên gọi cho thống dưới cùng trong địa thời học của kỷ Cambri trên Trái Đất. Thống này kéo dài từ khoảng 542,0±1,0 tới 521,0±0,0 triệu năm trước (Ma). Thống Terreneuve nằm
**Thống Phù Dung** là tên gọi cho thống trên cùng trong địa thời học của kỷ Cambri trên Trái Đất. Thống này kéo dài từ khoảng 501±2 tới 488,3±1,7 triệu năm trước (Ma). Thống Phù
**Miêu Lĩnh** hay **Thống 3** trong niên đại địa chất là thế giữa của kỷ Cambri, và trong thời địa tầng học là thống giữa của hệ Cambri. Thế Miêu Lĩnh tồn tại từ ~
**Động vật Chân khớp** hay **Động vật Chân đốt** là những động vật không có xương sống, có một bộ xương ngoài (bộ xương vĩnh viễn), một cơ thể chia đốt và những đốt phụ,
Trong thời địa tầng, **tầng Bài Bích** (tiếng Anh: _Paibian_) là một giai đoạn của thống Phù Dung trong hệ Cambri của giới Cổ sinh thuộc Liên giới Hiển sinh. Nó diễn ra trong giai
**Tầng Drum** là một tầng trong thống 3 (Cambri giữa) của kỷ Cambri trong địa thời học. Tầng này nằm ngay dưới tầng Cổ Trượng và phía trên tầng 5 chưa có tên cùng một
**Tầng Ô Lựu** (tiếng Trung: 乌溜, tiếng Anh: Wuliuan) của kỷ Cambri là tầng đầu tiên của Thống Miêu Lĩnh. Tầng Ô Lựu nằm ngay trên tầng 4 và ngay dưới tầng Drum. Khoảng thời
**Tầng Giang Sơn** là tầng giữa của thống Phù Dung. Nó tiếp sau tầng Bài Bích và đứng trước bởi tầng 10 của kỷ Cambri. Đáy của nó được xác định là nơi xuất hiện
**Tầng Fortune** là tên gọi cho tầng dưới cùng của thống Terreneuve trong địa thời học thuộc kỷ Cambri trên Trái Đất. Tầng này kéo dài từ khoảng 542,0±1,0 tới khoảng 528,0±0,0 triệu năm trước
**Tầng Cổ Trượng** là một tầng trong địa thời học Trái Đất, được đề xuất cho tầng 7 của kỷ Cambri. Tầng Cổ Trượng nằm ngay trên tầng Drum và ngay dưới tầng Bài Bích.
**Cột đá Lena** (; , _Ölüöne Turūk Khayalara_) là tên của những cột đá được hình thành tự nhiên dọc theo bờ sông Lena ở vùng Viễn Đông Siberia, cách thành phố Yakutsk khoảng 180 km,
Trong phân loại sinh học, **Phân loại giới Động vật** cũng như phân loại sinh học là khoa học nghiên cứu cách sắp xếp các động vật sống thành các nhóm khác nhau dựa vào:
**Đại dương Proto-Tethys** hay **đại dương Tiền-Tethys** là một đại dương cổ đã tồn tại vào cuối kỷ Ediacara tới kỷ Than đá (khoảng 550 tới 330 Ma). Nó là đại dương tồn tại trước
**Lớp Bọ ba thùy** (danh pháp khoa học: **Trilobita**) là một lớp động vật chân khớp hải dương đã tuyệt chủng. Đây là một trong những nhóm động vật chân khớp cổ nhất, với hóa
**Blastozoa** là một phân ngành của động vật đã tuyệt chủng thuộc ngành Echinodermata. Phân ngành này được đặc trưng bởi sự hiện diện của các cấu trúc hô hấp chuyên biệt và các cánh
**_Vetulicola_** là một chi tuyệt chủng của động vật biển từ kỷ Cambri của Trung Quốc. Nó là chi cùng tên với ngành Vetulicolia, kết luận không chắc chắn với mối quan hệ của nó,
right|270x270px|thumb|"Phục hồi sự sống" bởi [[Nobu Tamura]] **Saccorhytus** là một chi động vật đã tuyệt chủng thuộc liên ngành Deuterostomia, chỉ được tìm thấy một loài duy nhất là **Saccorhytus coronarius**. Sinh tồn cách đây
**_Haikouichthys_** là một chi tuyệt chủng động vật có xương sống trong động vật có hộp sọ được cho là đã sống 530 triệu năm trước đây, trong thời gian bùng nổ kỷ Cambri của
**_Leanchoilia_** là một chi động vật chân đốt arachnomorph bốn mắt từ trầm tích kỷ Cambri thuộc Burgess Shale ở Canada và hệ sinh vật Chengjiang của Trung Quốc. Nó dài khoảng 5 cm và có
Thế **Ordovic sớm** hay thống **Ordovic hạ** là thống địa tầng dưới cùng trong địa tầng học của kỷ Ordovic trên Trái Đất. Thống này kéo dài từ khoảng 488,3±1,7 tới 471,8±1,6 triệu năm trước
**Liên đại Nguyên Sinh** (**Proterozoic**, ) là một liên đại địa chất bao gồm một thời kỳ trước khi có sự phổ biến đầu tiên của sự sống phức tạp trên Trái Đất. Liên đại
phải **Laurasia** () là vùng đất nằm ở phía bắc trong số hai vùng đất bắt nguồn từ siêu lục địa Pangaea từ khoảng (Mya), vùng đất còn lại là Gondwana. Nó chia tách khỏi
Trong thời địa tầng, **tầng Tremadoc** (tiếng Anh: _Tremadocian_) là giai đoạn (bậc hay tầng động vật) đầu tiên của thống Hạ Ordovic trong hệ Ordovic của giới Cổ sinh thuộc Liên giới Hiển sinh.
Trong địa chất học, một **thế** hay một **thế địa chất** là một đơn vị thời gian địa chất, phân chia các kỷ địa chất thành các khoảng thời gian nhỏ hơn, thường là vài
**_Myllokunmingia_** là một động vật từ Hạ Cambri của Trung Quốc, được cho là một động vật có xương sống, mặc dù điều này không có kết luận được chứng minh. Nó dài 28 mm và
**Medusoids** hay **discoids** là những sinh vật đã tuyệt chủng, bề ngoài tương tự như sứa. Sống vào cuối kỷ Precambri, kỷ Ediacara và đầu kỷ Cambri. Người ta tin rằng chúng là một trong
**Huy chương Charles Doolittle Walcott** là một giải thưởng của Viện hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ nhằm thúc đẩy việc nghiên cứu trong lãnh vực đời sống ở thời kỳ Tiền Cambri
Trong thời địa tầng, **tầng Flo** (tiếng Anh: _Floian_) là giai đoạn (bậc hay tầng động vật) cuối của thống Hạ Ordovic trong hệ Ordovic của giới Cổ sinh thuộc Liên giới Hiển sinh. Nó
**Palaeoscolecida** là một nhóm động vật trong liên ngành Ecdysozoa đã tuyệt chủng, chúng giống như các loài Priapulida _bọc giáp_, từ muộn kỷ Silur. Tên của nhóm này, được lấy từ tên chi Palaeoscolex.
Nền móng của Avalonia tại châu Âu. **Đại dương Rheic** là một đại dương trong đại Cổ sinh, nằm giữa: * Ở phía bắc là lục địa Baltica (ngày nay là miền bắc châu Âu)
**Quả cầu tuyết Trái Đất** đề cập tới giả thuyết rằng bề mặt Trái Đất từng hầu như hay hoàn toàn bị đóng băng ít nhất một lần trong ba giai đoạn từ 650 tới
[[sên biển]] Một số loài [[ốc nón (Limpet)]] **Ngành Thân mềm** (_Mollusca_, còn gọi là **nhuyễn thể** hay **thân nhuyễn**) là một ngành trong phân loại sinh học có các đặc điểm như cơ thể
**_Promissum_** là một chi nguyên thủy động vật có dây sống sống ở kỷ Ordovic cách đây 500 triệu năm.
**Động vật**, được phân loại là **giới Động vật** (**Animalia**, đồng nghĩa: **Metazoa**) trong hệ thống phân loại 5 giới. Cơ thể của chúng lớn lên khi phát triển. Hầu hết động vật có khả
Biểu đồ thang thời gian địa chất. **Lịch sử địa chất Trái Đất** bắt đầu cách đây 4,567 tỷ năm khi các hành tinh trong hệ Mặt Trời được tạo ra từ tinh vân mặt trời,
nhỏ|Trong liên đại Hiển Sinh, sự [[đa dạng sinh học thể hiện sự gia tăng vững chắc nhưng không đều từ gần như bằng 0 tới vài chục ngàn chi.|trái]]Sự biến đổi của nồng độ
nhỏ|Hình ảnh tiêu biểu cho Đại Tân Nguyên Sinh **Đại Tân Nguyên Sinh** hay **đại Tân Nguyên Cổ** (**Neoproterozoic**) là đại thứ ba và là cuối cùng của liên đại Nguyên Sinh. Nó kéo dài