✨Kỷ Permi

Kỷ Permi

:Permi cũng là tên gọi khác cho phân nhóm ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Permi

Kỷ Permi (Nhị Điệp) là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 298,9 ± 0,15 triệu năm trước (Ma) tới 252,17 ± 0,06 Ma. Nó là kỷ cuối cùng của đại Cổ Sinh. Cũng giống như các kỷ địa chất khác, các địa tầng xác định kỷ Permi được xác định rất rõ ràng, nhưng niên đại chính xác của sự bắt đầu của kỷ là không chắc chắn với sai số vài triệu năm. Kỷ Permi diễn ra sau kỷ Than Đá (thế Pennsylvania tại Bắc Mỹ) và ngay sau nó là kỷ Trias thuộc đại Trung Sinh. Sự kết thúc của kỷ này được đánh dấu bằng sự kiện tuyệt chủng lớn, gọi là sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, đã được xác định niên đại chính xác hơn. Kỷ Permi được Roderick Murchison-một nhà địa chất học người Anh đặt tên trong thập niên 1840, theo khu vực được khai quật rộng khắp xung quanh thành phố Permi ở Nga. Các lớp khai quật tại Permi bao gồm một lượng lớn đá trầm tích lục địa màu đỏ và các lớp khai quật thuộc phần nước đại dương. Trong kỷ này xuất hiện phổ biến các loài bò sát tương tự như động vật có vú.

Phân chia

Ba đơn vị phân chia nhỏ của kỷ Permi được đưa ra dưới đây từ già (cổ) nhất tới trẻ nhất, và bao gồm các tầng động vật cũng từ cổ nhất tới trẻ nhất. Các tên gọi thời kỳ/giai đoạn tương đương được đặt trong đóng mở ngoặc.

  • Thế Cisural [299.0 ± 0.8 - 270.6 ± 0.7 Ma] Tầng Assel (Krumaia/Uskalikia/Surenia/Wolfcamp/Rotliegendes) [299.0 ± 0.8 - 294.6 ± 0.8 Ma] Tầng Sakmara (Sterlitamakia/Tastubia/Leonard/Wolfcamp/Rotliegendes) [294.6 ± 0.8 - 284.4 ± 0.7 Ma] Tầng Artinsk (Baigendzinia/Aktastinia/Rotliegendes) [284.4 ± 0.7 - 275.6 ± 0.7 Ma] Tầng Kungur (Iren/Filippov/Leonard/Rotliegendes) [275.6 ± 0.7 - 270.6 ± 0.7 Ma]
  • Thế Guadalupe [270.6 ± 0.7 - 260.4 ± 0.7 Ma] Tầng Road (Ufa/Zechstein) [270.6 ± 0.7 - 268.0 ± 0.7 Ma] Tầng Word (Kazan/Zechstein) [268.0 ± 0.7 - 265.8 ± 0.7 Ma] ** Tầng Capitan (Kazan/Zechstein) [265.8 ± 0.7 - 260.4 ± 0.7 Ma]
  • Thế Lạc Bình (Lopingian) [260.4 ± 0.7 Ma - 251.0 ± 0.4 Ma] Tầng Ngô Gia Bình (Wuchiapingian) hay (Dorashamia/Ochoa/Longtania/Rustler/Salado/Castile/Zechstein) [260.4 ± 0.7 Ma - 253.8 ± 0.7 Ma] Tầng Trường Hưng (Changhsingian) (Djulfia/Ochoa/hồ Dewey/Zechstein) [253.8 ± 0.7 Ma - 251.0 ± 0.4 Ma]

Đại dương

Mực nước biển trong kỷ Permi nói chung tương đối thấp, và các môi trường ven bờ biển đã bị thu hẹp bởi sự tập hợp của gần như tất cả các khối đất lớn lại với nhau thành một siêu lục địa là Pangea. Một siêu lục địa, thậm chí là rất lớn, luôn có ít đường bờ biển hơn so với từ 6 đến 8 lục địa nhỏ hơn có cùng tổng diện tích. Nó có thể là một trong những nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng hàng loạt các loài động vật biển vào cuối kỷ này bởi sự suy giảm nghiêm trọng các khu vực nông cạn ven biển mà nhiều dạng sự sống trong đại dương luôn ưa thích.

Cổ địa lý học

trái|Bản đồ Trái Đất ở kỷ Permi Trong kỷ Permi, tất cả các khối đất lớn của Trái Đất, ngoại trừ phần thuộc Đông Á ngày nay, đã kết hợp lại với nhau thành một siêu lục địa, gọi là Pangea. Pangea bao trùm khu vực xích đạo và mở rộng về phía hai cực, với hiệu ứng tương ứng đối với các dòng hải lưu trong một đại dương lớn, gọi là "Panthalassa", ("đại dương toàn thế giới").

Một siêu lục địa lớn như vậy tạo ra các điều kiện khí hậu với các dao động lớn về nóng và lạnh ("khí hậu lục địa") và gió mùa với mô hình mưa có tính chất theo mùa rõ rệt. Các sa mạc dường như đã trải rộng khắp Pangea. Các điều kiện khô như thế thích hợp cho thực vật hạt trần với các hạt nằm trong các lớp bảo vệ hơn là cho các loại thực vật như dương xỉ trong việc phân tán bào tử. Các loài cây thân gỗ hiện đại đầu tiên như thông (ngành Pinophyta), bạch quả (ngành Ginkgophyta) và tuế (ngành Cycadophyta) đã xuất hiện trong kỷ Permi.

Ba khu vực chung là đặc biệt đáng lưu ý đối với các trầm tích kỷ Permi bao gồm: dãy núi Ural (trong đó có cả Permi), Trung Quốc và miền tây nam Bắc Mỹ, trong đó thung lũng Permi tại bang Texas, Hoa Kỳ được đặt tên như vậy do nó có một trong những lớp trầm tích dày nhất trong các loại đá thuộc kỷ Permi trên thế giới.

Sự sống

Động vật biển

Các trầm tích đại dương thuộc kỷ Permi rất giàu các hóa thạch của động vật thân mềm (ngành Mollusca), động vật da gai (ngành Echinodermata) và động vật tay cuộn (ngành Brachiopoda). Các vỏ hóa thạch của hai chủng loại động vật không xương sống được sử dụng rộng rãi để xác định các địa tầng kỷ Permi và so sánh chúng giữa các khu vực là: các sinh vật thuộc bộ Fusulinida, một loại sinh vật đơn bào có vỏ tương tự như amip thuộc ngành Foraminifera, và các con cúc (phân lớp Ammonoidea), một dạng động vật chân đầu có vỏ- các họ hàng xa của ốc anh vũ (phân bộ Nautilina) ngày nay.

Kết thúc của kỷ Permi, bọ ba thùy và 90% các nhóm động vật biển khác đã bị tuyệt chủng.

Động vật trên cạn

Sự sống trên đất liền trong kỷ Permi bao gồm các loại thực vật đa dạng, động vật chân đốt (ngành Arthropoda) và nhiều dạng khác nhau của động vật bốn chân (siêu lớp Tetrapoda) kỷ Pecmi.

Kỷ Permi bắt đầu với hệ thực vật thuộc kỷ Than đá vẫn còn phồn thịnh. Vào khoảng giữa kỷ Permi đã có sự chuyển tiếp lớn trong hệ thực vật. Các dạng thạch tùng ưa thích đầm lầy của kỷ Than đá, chẳng hạn LepidodendronSigillaria, đã được thay thế bởi những loại tùng bách có ưu thế hơn, là các loại cây thích nghi tốt hơn với các thay đổi khí hậu. Trong kỷ Permi đã phát sinh nhiều nhóm cây tùng bách, bao gồm các tổ tiên của các họ tùng bách ngày nay. Bạch quả và tuế cũng xuất hiện trong thời kỳ này. Các cánh rừng rậm rạp đã xuất hiện tại nhiều nơi, với sự đa dạng các nhóm thực vật.

Một lượng các nhóm côn trùng quan trọng mới cũng xuất hiện trong thời kỳ này, bao gồm các loài thuộc các bộ như bộ Cánh cứng (Coleoptera) và bộ Hai cánh (Diptera).

Động vật bốn chân kỷ Permi bao gồm các loại động vật lưỡng cư (lớp Amphibia) như bộ Temnospondyli, phân lớp LepospondyliBatrachosauria và bò sát như lớp SauropsidaSynapsida (các bộ PelycosauriaTherapsida). Thời kỳ này cũng là giai đoạn phát triển của các loại động vật sống hoàn toàn trên cạn và sự xuất hiện của động vật ăn cỏ và ăn thịt lớn đầu tiên.

Hệ động vật trên cạn giai đoạn Permi sớm đã chủ yếu là Pelycosauria và Amphibia, giai đoạn Permi giữa là Therapsida nguyên thủy như phân bộ Dinocephalia, và giai đoạn Permi muộn là các loại Therapsida nhiều ưu thế hơn như phân bộ Gorgonopsia và cận bộ Dicynodontia. Vào cuối kỷ Permi thì các loại bò sát thuộc nhóm Archosauriformes đầu tiên đã xuất hiện (họ Proterosuchidae, bộ Thecodontia); trong kỷ tiếp theo (kỷ Trias) thì chúng đã tiến hóa thành các dạng nhiều ưu thế hơn, cuối cùng thành khủng long (Dinosaur). Cũng xuất hiện vào cuối kỷ Permi là các loài thuộc phân bộ Cynodontia đầu tiên, và chúng có lẽ đã tiến hóa thành động vật có vú trong kỷ Trias.

File:EdaphosaurusDB.jpg|_Edaphosaurus pogonias_ và _Platyhystrix_ - Kỷ Permi sớm, tại Bắc Mỹ và châu Âu File:Dimetr eryopsDB.jpg|_Dimetrodon_ và _Eryops_ - Kỷ Permi sớm, Bắc Mỹ File:Ocher fauna DB.jpg|Ocher fauna, Estemmenosuchus và Ivantosaurus - Kỷ Permi giữa, vùng Ural File:Titanophoneus 3.jpg|_Titanophoneus_ và _Ulemosaurus_ - vùng Ural

Côn trùng

Xuất hiện ở đại lục Pennsylvania vào kỷ Permi, thành công nhất cho tới nay chính là những họ hàng của gián nguyên thủy. Có 6 chân di chuyển nhanh, 4 chiếc cánh gấp, mắt khá tốt, phát triển mạnh bộ râu (khứu giác), một hệ thống tiêu hóa ăn tạp, một cơ quan cho việc lưu trữ tinh trùng, một bộ xương ngoài bằng kitin có thể hỗ trợ và bảo vệ, cũng như một dạng miệng hiệu quả, cho nó một lợi thế vượt trội hơn các động vật ăn cỏ khác. Khoảng 90% các loài côn trùng vào đầu kỷ Permi là các loài côn trùng giống gián ("Blattopterans").

Hình thức nguyên thủy của chuồn chuồn (Odonata) là những kẻ săn mồi thống trị trên không và chuyên ăn thịt côn trùng trên mặt đất. Odonata xuất hiện trong kỷ Permi và tất cả đều có vòng đời lưỡng cư (ấu trùng sống dưới nước, con trưởng thành sống trên cạn), cũng như tất cả các loài chuồn chuồn hiện đại. Dạng hóa thạch lâu đời nhất của họ này xuất hiện từ kỷ Devon. Hóa thạch cho thấy họ chuồn chuồn có thể đã sở hữu các đặc tính giống như ngày nay thậm chí là từ kỷ Cacbon muộn. Một số loài trong họ rất lớn so với ngày nay, có sải cánh lên tới 71 cm, có thể bắt các loài động vật có xương sống nhỏ. Một số nhóm côn trùng khác cũng xuất hiện trong kỷ Permi, bao gồm Coleoptera (ong) và Hemiptera (côn trùng thực sự).

Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias

Kỷ Permi kết thúc với sự kiện tuyệt chủng rộng lớn nhất được ghi lại trong cổ sinh vật học: Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias. 90% đến 95% các loài sinh vật biển đã tuyệt chủng, cũng như khoảng 70% loài sinh vật trên cạn. Ở mức độ riêng rẽ, có lẽ tới 99,5% số lượng các loại sinh vật khác nhau đã biến mất do hậu quả của sự kiện này.

Ở đây cũng có các chứng cứ đáng kể cho thấy sự ngập lụt rộng khắp gây ra bởi đá bazan nóng chảy từ sự phun trào macma đã gây ra sức ép môi trường và dẫn tới sự tuyệt chủng hàng loạt. Sự suy giảm môi trường sống ven biển và độ khô cằn tăng lên cũng góp phần vào sự kiện này.

Một giả thuyết khác cho rằng đó là do sự phun trào khí sulfide hiđrô từ lòng biển cả. Các phần của đại dương bị mất oxy hòa tan trong nước theo chu kỳ đã cho phép các chủng loại vi khuẩn sống không cần oxy có thể phát triển mạnh mẽ và tạo ra một lượng lớn khí sulfide hiđrô. Nếu một lượng lớn khí này được tích lũy trong khu vực thiếu oxy thì nó có thể thoát ra ngoài khí quyển.

Các loại khí có tính oxy hóa trong khí quyển có thể triệt tiêu loại khí độc này nhưng sulfide hiđrô có lẽ đã tiêu thụ hết tất cả khí trong khí quyển có thể chuyển hóa nó. Nồng độ sulfide hiđrô đã tăng lên một cách đáng kể trong vài trăm năm.

Mô hình hóa sự kiện như thế đã chỉ ra rằng khí này có thể tiêu hủy ozon trong các tầng trên của khí quyển, làm cho bức xạ tia cực tím lại tiếp tục giết chết nốt các loài đã sống sót sau sự phun trào khí độc này (Kump và những người khác, 2005). Tất nhiên, còn tồn tại những loài có thể chuyển hóa sulfide hiđrô.

Thậm chí người ta còn đưa ra một giả thuyết mang tính suy đoán nhiều hơn là các bức xạ mãnh liệt từ các siêu tân tinh cận kề là nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng này.

Trùng ba lá đã phát triển thịnh vượng kể từ kỷ Cambri, cuối cùng đã bị tuyệt chủng trước khi kỷ Permi kết thúc.

Năm 2006, một nhóm các nhà khoa học Hoa Kỳ từ Đại học Tiểu bang Ohio thông báo rằng có chứng cứ cho thấy tồn tại một hố do thiên thạch (hố vùng đất Wilkes) gây ra với đường kính khoảng 500 km tại châu Nam Cực. Hố này nằm ở độ sâu 1,6 km phía dưới lớp băng của khu vực vùng Wilkes ở miền đông châu Nam Cực. Các nhà khoa học đã suy đoán là va chạm mạnh này có thể đã gây ra sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi-kỷ Trias, mặc dù niên đại của nó là dao động trong khoảng 100-500 triệu năm trước. Họ cũng suy doán là nó cũng góp phần bằng một cách thức nào đó đối với sự chia tách của Australia ra khỏi khối đất Nam Cực, mà khi đó cả hai đều là các phần của siêu lục địa Gondwana.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
:_Permi cũng là tên gọi khác cho phân nhóm ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Permi_ **Kỷ Permi (Nhị Điệp)** là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 298,9 ± 0,15 triệu năm trước
**Sự kiện tuyệt chủng Permi – Tam Điệp** hay **Permi – Trias** là một sự kiện tuyệt chủng xảy ra cách đây 251,4 Ma (_Mega annum, triệu năm_), và 70% các loài động vật có
nhỏ|phải|[[Sa thạch từ kỷ Tam Điệp.]] **Kỷ Trias** (phiên tiếng Việt: **Triat**) hay **kỷ Tam Điệp** là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 200 đến 251 triệu năm trước. Là kỷ đầu tiên
**Kỷ Than Đá**, **kỷ Thạch Thán** hay **Kỷ Cacbon (Carbon)** (**Carboniferous**) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, kéo dài từ khi kết thúc kỷ Devon, vào khoảng 359,2 ±
thumb|left **Kỷ Ordovic** (phiên âm tiếng Việt: **Ocđôvic**) là kỷ thứ hai trong số sáu (bảy tại Bắc Mỹ) kỷ của đại Cổ Sinh. Nó diễn ra sau kỷ Cambri và ngay sau nó là
**Kỷ Neogen** () hay **kỷ Tân Cận** là một kỷ địa chất của đại Tân Sinh bắt đầu từ khoảng 23,03 ± 0,05 triệu năm trước (Ma). Kỷ Neogen diễn ra sau khi kỷ Paleogen
**Temnospondyli** (từ tiếng Hy Lạp τέμνειν (temnein, "cắt") và σπόνδυλος (spondylos, "xương sống")) là một bộ đa dạng động vật bốn chân, thường được coi là động vật lưỡng cư nguyên thủy, phát triển mạnh
Bản đồ đại dương Paleo-Tethys, khoảng 280 Ma. **Đại dương Paleo-Tethys** hay **đại dương Palaeo-Tethys**, **đại dương Cổ-Tethys** là một đại dương cổ đại trong đại Cổ sinh. Nó nằm giữa siêu lục địa Gondwana
Trong niên đại địa chất, **thế Lạc Bình** (Loping) là thống/thế thứ ba và là cuối cùng của kỷ Permi của đại Paleozoi thuộc liên đại Phanerozoi. Biểu đồ Địa tầng Quốc tế (v2018/07) cung
Trong niên đại địa chất, **thế Cisural** là thế đầu tiên của kỷ Permi của đại Paleozoi của liên đại Phanerozoi. Thế có niên đại trong khoảng từ 298,9 ± 0,15 đến 272,3 ± 0,5
**Tầng Assel** là một tầng động vật thuộc thế Cisural (hay Hạ Permi) của kỷ Permi trong đại Cổ Sinh của liên đại Hiển Sinh, kéo dài từ khoảng 299±0,8 triệu năm trước (Ma) tới
**_Prionosuchus_** là một chi động vật lưỡng cư temnospondyli tuyệt chủng kích thước rất lớn từ Trung Permi (270 triệu năm trước), hóa thạch được tìm thấy tại nơi bây giờ là Brasil. ## Mô
**Tầng Kungur** là tầng động vật thứ tư và cuối cùng của thế Cisural trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 275,6 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới 270,6 ± 0,7 Ma. Tên
nhỏ|Mảng Cimmeria vẫn còn gắn với [[Gondwana. ~290 Ma (Tiền Permi)]] **Mảng Cimmeria** là một mảng kiến tạo cổ đại bao gồm các phần ngày nay thuộc Anatolia (Tiểu Á), Iran, Afghanistan, Tây Tạng, Đông
**_Arthropleura_** (Tiếng Hy Lạp nghĩa là _xương sườn nối_) là một chi tuyệt chủng Millipede động vật chân đốt sống trong những gì bây giờ đông bắc Bắc Mỹ và Scotland khoảng 345 đến 295
thumb|left|_Jimbacrinus bostocki_ Tầng Artinsk của Úc. **Tầng Artinsk** là tầng động vật thứ ba trong thế Cisural của kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 284,4 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới 275,6 ±
Pha đầu tiên trong hình thành đại dương Tethys: Biển Tethys (đầu tiên) chia [[Pangaea thành hai siêu lục địa là Laurasia và Gondwana.]] **Biển Tethys** hay **đại dương Tethys** là một đại dương trong
Thuật ngữ **Pteridospermatophyta** (hay "**dương xỉ hạt**", "**dương xỉ có hạt**" hoặc "**Pteridospermatopsida**" hoặc "**Pteridospermae"**) được dùng để chỉ một vài nhóm khác biệt bao gồm các loài thực vật có hạt đã tuyệt chủng
**Lớp Cá mập gai** (danh pháp khoa học: **_Acanthodii_**) là một lớp cá đã tuyệt chủng. Chúng có các đặc trưng của cả cá xương (siêu lớp Osteichthyes) lẫn cá sụn (lớp Chondrichthyes). Chúng xuất
**Lớp Bọ ba thùy** (danh pháp khoa học: **Trilobita**) là một lớp động vật chân khớp hải dương đã tuyệt chủng. Đây là một trong những nhóm động vật chân khớp cổ nhất, với hóa
Trong niên đại địa chất, **thế Guadalupe** là thống/thế thứ hai và giữa của kỷ Permi của đại Paleozoi của liên đại Phanerozoi. Thế có niên đại trong khoảng từ 272,3 ± 0,5 đến 259,8
**_Acanthodes_** (nghĩa là _cuống gai_ hay _gốc gai_) là một chi cá mập gai (Acanthodii) đã tuyệt chủng. Các hóa thạch được tìm thấy ở châu Âu, Bắc Mỹ và Australia. So sánh với các
**Blastozoa** là một phân ngành của động vật đã tuyệt chủng thuộc ngành Echinodermata. Phân ngành này được đặc trưng bởi sự hiện diện của các cấu trúc hô hấp chuyên biệt và các cánh
**Kazakhstania** hay còn gọi là **Khối Kazakhstan** là một khu vực lục địa nhỏ nằm bên trong của châu Á ngày nay. Nó bao gồm các khu vực ở phía bắc và đông biển Aral,
**Megalichthyidae** là một họ cá vây thùy tiền sử, sinh sống vào cuối kỷ Devon tới đầu kỷ Permi:
**Parareptilia** (nghĩa là "nhóm bên cạnh của bò sát") là một tên gọi khoa học nói chung được định nghĩa rất khác nhau, trong quá khứ từng được coi là một phân lớp của động
**_Meganeura_** là một loài côn trùng tuyệt chủng từ kỷ Cacbon cách đây khoảng 300 triệu năm trước, nó rất giống và có liên quan đến chuồn chuồn hiện đại. Với sải cánh lên tới
**_Edaphosaurus_** ( /ˌɛ d ə f oʊ s ɔːr ə s /, có nghĩa là "thằn lằn vỉa hè") là một chi của edaphosaurid synapsids sống ở những khu vực nay là Bắc Mỹ và
nhỏ|200 px :_Đây là bài về thành phố Perm, về kỷ địa chất - xem bài Kỷ Permi, về tỉnh Perm - xem bài Tỉnh Perm._ **Perm** (tiếng Nga: Пермь, dân số 1.000.100 thống kê
**Tầng Trường Hưng** (còn gọi là **tầng Dorasham**, **tầng hồ Dewey**, **tầng Tatar** (một phần)) là tầng động vật thứ hai và cuối cùng của thế Lạc Bình trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ
**Tầng Capitan** (còn gọi là **tầng Tatar** (một phần)) là tầng động vật thứ ba và cuối cùng của thế Guadalupe trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 265,8 ± 0,7 triệu năm trước
thumb|left|_Hercosestria cribrosa_. **Tầng Road** (còn gọi là **tầng Ufa**) là tầng động vật đầu tiên của thế Guadalupe trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 270,6 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới khoảng
**Tầng Word** (còn gọi là **tầng Kazan**) là tầng động vật thứ hai của thế Guadalupe trong kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 268,0 ± 0,7 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 265,8 ±
**_Gorgonops_** là một chi Bộ Cung thú sống vào thời kỳ Kỳ Permi. Nó là một thành viên điển hình của họ Gorgonopsinae.
**_ Diictodon_** là một chi Dicynodontia phân lớp một cung bên sống vào thời kỷ Permi 225 triệu năm trước. Hóa thạch đã được tìm thấy ở châu Phi và châu Á (trên thực tế,
'' **_Rhopalodon_** là một chi động vật một cung bên sống vào thời kỳ kỷ Permi tại Nga.
**Tầng Sakmara** là tầng động vật thứ hai trong thế Cisural của kỷ Permi. Nó kéo dài từ khoảng 294,6± 0,8 triệu năm trước (Ma) tới 284,4 ± 0,7 Ma. Tên gọi của tầng này
**Tầng Ngô Gia Bình** (còn gọi là **tầng Djulf**, **tầng Longtan**, **tầng Rustler**, **tầng Salado**, **tầng Castile**, **tầng Dzhulf**, **tầng Tatar** (một phần)) là tầng động vật thứ nhất của thế Lạc Bình trong kỷ
**_Nigerpeton_** là một chi động vật lưỡng cư temnospondyli sống trong kỷ Permi khoảng 250 triệu năm trước tại Niger. Mẫu Nigerpeton đầu tiên được thu thập trong quá trình khảo sát thực địa trong
**_Zatrachys_** là một chi động vật lưỡng cư temnospondyli từ kỷ Permi của Texas.
**_Dvinosaurus_** là một chi động vật lưỡng cư Temnospondyli tuyệt chủng từ cuối kỷ Permi ở Nga. Ba loài đầu tiên, _D. primus_ (loài điển hình), _D. secundus_, và _D. tertius_, được mô tả bởi
Những biến đổi về [[Cacbon điôxít|CO2, nhiệt độ và bụi từ lõi băng ở trạm nghiên cứu Vostok trong 400.000 năm qua]]**Kỳ băng hà** là một giai đoạn giảm nhiệt độ lâu dài của khí
**Kỷ Jura** là một kỷ trong niên đại địa chất kéo dài từ khoảng 200 triệu năm trước, khi kết thúc kỷ Tam điệp (_Trias_) tới khoảng 146 triệu năm trước, khi bắt đầu kỷ
**Kiến tạo sơn Ural** là thuật ngữ để chỉ một chuỗi dài các sự kiện địa chất đã làm nổi lên dãy núi Ural, bắt đầu từ Hậu Than đá và Permi của đại Cổ
phải|Sa thạch có tuổi Trias sớm **Trias sớm** là thế đầu tiên trong 3 thế của kỷ Trias trong thang thời gian địa chất. Thời gian diễn ra thế này kéo dài từ 251 ±
**Tầng Indu** trong niên đại địa chất là kỳ đầu tiên của thế Trias sớm, và trong thời địa tầng học là bậc dưới cùng của thống Trias dưới. Kỳ Indu tồn tại từ ~
**Cimmeria** là một tiểu lục địa cổ tồn tại vào khoảng 200-300 triệu năm trước. Nó rạn nứt ở phía bắc của Gondwana trong Hậu Than đá- Tiền Permi (khoảng 300 Ma) và tiến về
**_Dimetrodon_** ( hoặc : nghĩa là _hai cỡ răng,_ tên tạm dịch là _bò sát lưỡng nha_ hoặc _bò sát tạp nha_) là một loài động vật ăn thịt thuộc Nhánh Mặt thú (bò sát
**_Bradysaurus_** là một loài pareiasaur lớn, sớm và phổ biến, những hóa thạch được biết đến từ Tapinocephalus Assemblage Zone (thời đạiTầng Capitan) của Karoo Nam Phi. Cùng với các dinocephalia tương tự, các bradysaurs
**_Archegosaurus_** là một chi lưỡng cư temnospondyli sống ở giai đoạn Asselian đến Wuchiapingian của Permi, khoảng 299-253 triệu năm trước. Phần còn lại của con vật này, bao gồm ít nhất 90 phần xương