✨Thế Pliocen

Thế Pliocen

Thế Pliocen () hay thế Pleiocen hoặc thế Thượng Tân là một thế địa chất, theo truyền thống kéo dài từ khoảng 5,332 tới 1,806 triệu năm trước (Ma). Tuy nhiên, trong phiên bản 2009 về thang niên đại địa chất của ICS thì ranh giới trên của nó đã được điều chỉnh lại thành 2,588 Ma

Thế Pliocen là thế thứ hai của kỷ Neogen trong đại Tân Sinh. Thế Pliocen diễn ra sau thế Miocen và ngay sau nó là thế Pleistocen.

Thế Pliocen là do Charles Lyell đặt tên theo các từ trong tiếng Hy Lạp πλεῖον (pleion, "nhiều hơn") và καινός (kainos, "mới") và có nghĩa gần đúng là "sự mở rộng của gần đây", để chỉ các quần động vật thân mềm đại dương về bản chất là hiện đại.

Giống như các thế địa chất khác, các địa tầng xác định điểm bắt đầu và kết thúc được xác định khá rõ nhưng niên đại chính xác của chúng là chưa chắc chắn lắm. Các ranh giới xác định sự bắt đầu của thế Pliocen không được thiết lập bằng sự kiện dễ dàng nhận dạng ở quy mô toàn thế giới mà bằng các ranh giới khu vực giữa thế Miocen ấm áp hơn và thế Pliocen tương đối lạnh hơn. Ranh giới trên đã từng được thiết lập có chủ ý vào đầu thời kỳ băng hà của thế Pleistocen nhưng hiện nay được xác định muộn hơn. Nhiều nhà địa chất nhận thấy các phân chia rộng hơn của các kỷ Paleogen và Neogen là có ích hơn.

Nhà thiên văn Narciso Benítez của Đại học Johns Hopkins và nhóm của ông gợi ý rằng một siêu tân tinh là ứng cử viên có vẻ hợp lý nhưng chưa được kiểm chứng cho nguyên nhân gây ra sự kiện tuyệt chủng trong lòng đại dương đặc trưng cho ranh giới Pliocen-Pleistocen, do gây ra sự phá hủy đáng kể tầng ôzôn.

Phân chia

Các tầng động vật của thế Pliocen từ trẻ nhất tới cổ nhất theo phân loại của Ủy ban quốc tế về địa tầng học (ICS) là:

Hai tầng đầu tiên (nay chỉ còn tầng Piacenza) tạo thành Hậu Pliocen, trong khi tầng Zancla là tầng duy nhất của Tiền Pliocen. Tầng Piacenza có thể gọi một cách không chính thức là "Trung Pliocen".

Đối với phần lớn khu vực Bắc Mỹ, một hệ thống khác (NALMA) thường được dùng và nó chồng lấn lên các ranh giới của thế địa chất này:

Các hệ thống phân loại khác được sử dụng cho California, Australia, Nhật Bản và New Zealand.

Khí hậu

Khí hậu trở nên lạnh và khô hơn, mang tính chất mùa, tương tự như khí hậu ngày nay. Các dải băng châu Nam Cực đã phát triển trong thế Pliocen. Châu lục này bị đóng băng và bị che phủ toàn bộ bởi các sông băng vĩnh cửu vào đầu thế Pliocen. Sự hình thành chỏm băng Bắc cực diễn ra vào khoảng 3 Ma được ghi nhận bằng sự dịch chuyển đột ngột trong tỷ lệ các đồng vị của oxy và cuội kết trong băng ở các tầng trầm tích Bắc Đại Tây Dương và Bắc Thái Bình Dương. Sự đóng băng ở các vĩ độ trung bình có lẽ đã diễn ra trước khi kết thúc thế địa chất này.

Cổ địa lý học

Các lục địa vẫn tiếp tục trôi dạt về phía vị trí của chúng hiện nay, có lẽ dịch chuyển từ các vị trí xa tới 250 km từ vị trí hiện tại tới các vị trí chỉ cách khoảng 70 km so với vị trí hiện nay của chúng. Nam Mỹ kết nối với Bắc Mỹ thông qua eo đất Panama trong thế Pliocen, tạo ra sự kết thúc gần như trọn vẹn của quần động vật thú có túi (Marsupialia) khác biệt tại Nam Mỹ. Sự hình thành của eo đất có hậu quả lớn đối với nhiệt độ toàn cầu, do các dòng hải lưu ấm xích đạo bị chia cắt và chu kỳ lạnh của Đại Tây Dương đã bắt đầu, với các luồng nước lạnh từ Bắc cực và Nam cực làm hạ nhiệt độ của Đại Tây Dương khi này đã bị cô lập.

Va chạm của châu Phi với châu Âu tạo ra Địa Trung Hải, chấm dứt các dấu tích của đại dương Tethys.

Các thay đổi của mực nước biển đã làm lộ thiên cầu đất liền giữa Alaska và châu Á.

Các loại đất đá trong lòng đại dương cũng bị lộ thiên rõ nét tại Địa Trung Hải, Ấn Độ, Trung Quốc. Ở những nơi khác chúng chỉ lộ thiên chủ yếu là ven bờ biển.

Quần thực vật

Sự thay đổi thành khí hậu có tính chất mùa, lạnh và khô hơn có ảnh hưởng đáng kể tới thảm thực vật của thế Pliocen, làm giảm các loài nhiệt đới trên toàn thế giới. Các cánh rừng lá sớm rụng phát triển hơn, các rừng cây lá kim và tundra che phủ phần lớn ở phía bắc, còn đồng cỏ trải rộng trên mọi châu lục (ngoại trừ châu Nam Cực). Các rừng nhiệt đới bị hạn chế trong một dải hẹp xung quanh xích đạo, và bổ sung thêm cho các xavan khô là các sa mạc ở châu Á và châu Phi.

Quần động vật

Spondylus

Các quần động vật đại dương và đất liền về bản chất là hiện đại, mặc dù quần động vật lục địa là nguyên thủy hơn một chút so với ngày nay. Những sinh vật dạng người của tông Hominini, nhóm Australopithecine, đã xuất hiện trong thế Pliocen.

Các va chạm của các lục địa nghĩa là có sự di cư lớn và trộn lẫn của các loài trước đó là cô lập, chẳng hạn như trong Đại trao đổi châu Mỹ. Các động vật ăn cỏ trở nên to lớn hơn, giống như các động vật săn mồi chuyên biệt hóa.

Động vật có vú

Tại Bắc Mỹ, động vật gặm nhấm, voi răng mấu (Mammutidae) to lớn, voi răng hõm (Gomphotheriidae), thú có túi ôpốt (Didelphimorphia) vẫn tiếp tục thành công, trong khi các động vật móng guốc (Ungulata) suy giảm, với lạc đà, hươu và ngựa đều suy giảm về quần thể. Nhiều loài tê giác, heo vòi và Chalicotheriidae bị tuyệt chủng. Nhóm động vật ăn thịt như chồn đa dạng hóa, cũng như chó cùng những con gấu săn mồi và chạy nhanh. Những con lười (Folivora), thú răng khắc (Glyptodont) và tatu (Cingulata) tiến về phía bắc với sự hình thành của eo đất Panama.

Tại đại lục Á-Âu động vật gặm nhấm cũng phát triển, trong khi sự phân bố của linh trưởng bị thu hẹp. Voi, voi răng hõm và voi răng mái (Stegodon spp.) thành công tại châu Á, còn các loài đa man từ châu Phi di cư lên phía bắc. Sự đa dạng của các loài ngựa bị suy giảm, trong khi heo vòi và tê giác lại phát triển tương đối tốt. Trâu bò và linh dương cũng thành công, và một số loài lạc đà từ Bắc Mỹ vượt sang châu Á. Linh cẩu và mèo răng kiếm tiền sử xuất hiện, gia nhập nhóm động vật săn mồi cùng với chó, gấu và chồn.

Tại châu Phi, nhóm thống lĩnh là động vật móng guốc, còn linh trưởng vẫn tiếp tục quá trình tiến hóa của mình, với Australopithecine (một số trong những động vật dạng người đầu tiên) xuất hiện vào cuối thế Pliocen. Động vật gặm nhấm cũng thành công, còn quần thể voi thì gia tăng số lượng. Trâu, bò và linh dương tiếp tục đa dạng hóa và vượt qua lợn về số lượng loài. Những loài hươu cao cổ đầu tiên xuất hiện, còn lạc đà di cư từ Bắc Mỹ qua châu Á sang đây. Các dạng ngựa và tê giác hiện đại xuất hiện. Gấu, chó và chồn (nguồn gốc Bắc Mỹ) gia nhập cùng hổ, báo, mèo, linh cẩu và cầy hương để trở thành những kẻ săn mồi ở châu Phi, đã buộc linh cẩu phải thích nghi như là những kẻ chuyên ăn xác chết.

Nam Mỹ bị xâm chiếm lần đầu tiên bởi các loài từ Bắc Mỹ kể từ kỷ Phấn Trắng, với các dạng động vật gặm nhấm và linh trưởng trộn lẫn với các dạng phương nam. LitopternaNotoungulata, các nhóm động vật móng guốc bản địa Nam Mỹ, cũng phát triển tốt. Các động vật ăn thịt nhỏ, giống như chồn của họ cầy (Mustelidae) và coati (Nasua) di cư từ phía bắc tới. Các loài thú răng khắc ăn cỏ (Glyptodont), lười khổng lồ và tatu nhỏ hơn phát triển tốt.

Thú có túi (Marsupialia) vẫn là nhóm thống lĩnh trong quần thú của Australia, với các dạng ăn cỏ như gấu túi (Vombatidae), kangaroo và Diprotodont (thú răng hai cửa) to lớn. Các loài thú có túi và ăn thịt vẫn tiếp tục sinh tồn trong thế Pliocen, bao gồm nhóm Dasyuromorphia, sói Tasmania (họ Thylacinidae, tương tự như chó) và sư tử túi (chi Thylacoleo, tương tự như mèo). Những loài gặm nhấm đầu tiên cũng đến đây trong thời gian này, trong khi dơi cùng các loài cá voi phát triển tốt. Thú mỏ vịt hiện đại, một nhóm động vật đơn huyệt, cũng xuất hiện.

Chim

Nhóm chim săn mồi họ Phorusrhacidae (chim khủng bố) đã hiếm trong thời gian này; trong số các loài cuối cùng chỉ còn chi Titanis, một chi chim săn mồi cạnh tranh cùng động vật có vú trong vai trò của động vật săn mồi hàng đầu. Đặc trưng phân biệt của chúng là móng vuốt, đã tiến hóa để túm lấy con mồi, chẳng hạn như Hipparion (dạng ngựa cổ đại). Các nhóm chim khác có lẽ đã tiến hóa vào thời gian này, một số trở thành chim hiện đại còn một số bị tuyệt chủng.

Bò sát

Các dạng cá sấu bị tuyệt chủng ở châu Âu do khí hậu lạnh lẽo. Các nhóm rắn độc tiếp tục gia tăng do có nhiều nhóm chim và động vật gặm nhấm đã tiến hóa.

Đại dương

Các đại dương vẫn còn tương đối ấm trong thế Pliocen, mặc dù chúng vẫn tiếp tục lạnh đi. Chỏm băng Bắc cực đã hình thành, tiếp tục làm khí hậu khô hơn và làm tăng quá trình lạnh đi của các dòng hải lưu nông ở Bắc Đại Tây Dương. Các hải lưu lạnh sâu phía dưới chảy ra từ Nam cực.

Sự hình thành của eo đất Panama khoảng 3,5 triệu năm trước chia cắt dấu tích cuối cùng của cái đã từng là hải lưu vòng xích đạo tồn tại từ kỷ Phấn Trắng và đầu đại Tân Sinh. Điều này có thể đã góp phần vào quá trình lạnh đi của các đại dương trên toàn cầu.

Trong lòng biển của thế Pliocen sinh sống các loài lợn biển, hải cẩu và sư tử biển.

Siêu tân tinh

Năm 2002, các nhà thiên văn phát hiện ra rằng khoảng 2 triệu năm trước, vào khoảng cuối thế Pliocen, một nhóm sao O và B sáng chói gọi là liên hợp OB Thiên Hạt-Bán Nhân Mã đã vượt qua Trái Đất trong phạm vi 150 năm ánh sáng và một hay nhiều siêu tân tinh có thể đã xảy ra trong nhóm này vào thời gian đó. Sự bùng nổ gần như vậy có thể gây ra tổn thất cho tầng ôzôn của Trái Đất và gây ra sự tuyệt chủng của một số dạng sự sống trong lòng đại dương (lưu ý rằng ở đỉnh điểm của nó, siêu tân tinh với kích thước như vậy có thể có độ sáng biểu kiến tuyệt đối như là một thiên hà với 200 tỷ ngôi sao).

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thế Pliocen** () hay **thế Pleiocen** hoặc **thế Thượng Tân** là một thế địa chất, theo truyền thống kéo dài từ khoảng 5,332 tới 1,806 triệu năm trước (Ma). Tuy nhiên, trong phiên bản 2009
**Thế Pleistocen** (phiên âm tiêng Việt: **Pleixtôxen**), còn gọi là **thế Canh Tân** hay **thế Cánh Tân** (), là một thế địa chất từng được tính từ khoảng 1,806 Ma tới 11,55 Ka BP (Ma/Ka
**Thế Miocen** () hay **thế Trung Tân** là một thế địa chất kéo dài từ khoảng 23,03 tới 5,33 triệu năm trước (Ma). Giống như các thế địa chất khác, các tầng đá xác định
**_Australopithecus bahrelghazali_** là loài Vượn người phương nam thuộc phân tông Hominina đã tuyệt chủng. Hóa thạch 3,5 triệu năm (thuộc thế Pliocen) của loài này được phát hiện tại Koro Toro, Bahr el Gazel,
**Tầng Zancle** trong niên đại địa chất là kỳ đầu của thế Pliocen, và trong thời địa tầng học là bậc dưới của thống Pliocen. Kỳ Zancle tồn tại từ ~ Ma đến Ma (Ma:
nhỏ|Titanis, một loài chim đất săn mồi tồn tại trong thời kỳ này. **Tầng Piacenza** trong niên đại địa chất là kỳ cuối của thế Pliocen, và trong thời địa tầng học là bậc trên
**Megalodon** (nghĩa là "răng lớn" từ tiếng Hy Lạp cổ đại) là một loài cá mập khổng lồ đã tuyệt chủng thuộc lớp Cá sụn, sống cách nay khoảng 15,9 tới 2,6 triệu năm vào thời
**_Odobenocetops_** ("cá voi mặt moóc") là một chi cá voi nhỏ sống vào thế Pliocen. Nó có hai răng nanh kiểu ngà voi. Ở một vài hóa thạch, răng nanh này dài hơn răng nanh
Trong địa chất học, một **thế** hay một **thế địa chất** là một đơn vị thời gian địa chất, phân chia các kỷ địa chất thành các khoảng thời gian nhỏ hơn, thường là vài
nhỏ|trái|Bộ xương của _Toxodon_. **_Toxodon_** là một chi thú đã tuyệt chủng sống vào giai đoạn từ thế Pliocen tới thế Pleistocen, khoảng 2,6 triệu đến 1.800 năm trước. Chúng có gốc gác Nam Mỹ.
nhỏ|phải|Ảnh vệ tinh thể hiện Hallasan ở trung tâm của đảo Jeju **Hallasan** là một núi lửa hình khiên trên đảo Jeju và là ngọn núi cao nhất tại Hàn Quốc. Khu vực xung quanh
**Canariomys bravoi** là một loài động vật gặm nhấm đặc hữu của đảo Tenerife (quần đảo Canary, Tây Ban Nha), đã tuyệt chủng. Các hóa thạch của loài này được tìm thấy hầu như khắp
**_Paranthropus aethiopicus_** hoặc _Australopithecus aethiopicus_ là một loài đã tuyệt chủng Hominin, một trong những _Australopithecus_ mạnh mẽ. Hiện đã có một cuộc tranh luận về nguồn gốc phyletic chính xác của mỗi loài. Các
nhỏ|trái|Một mẫu vật _Teleoceras fossiger_ tại [[Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ, Washington D.C]] **_Teleoceras_** là một chi tê giác ăn cỏ sống ở Bắc Mỹ trong thế Miocen, tuyệt chủng cách
**_Australopithecus anamensis_** là một loài thuộc Tông người sống khoảng từ 4,2-3,8 triệu năm trước.. Gần một trăm mẫu hóa thạch được biết đến tới từ Kenya và Ethiopia, đại diện cho hơn 20 cá
**_Australopithecus africanus_** là một loài hóa họ người thạch của _Australopithecus_. Mẫu hóa thạch đầu tiên của loài này, mặc dù không được công nhận vào thời kỳ đó, là một đoạn xương tay tìm
**Họ Kền kền Tân thế giới** (danh pháp khoa học: **_Cathartidae_**) là một họ chim chứa 7 loài, phân bố trong 5 chi, ngoại trừ 1 chi với 3 loài thì tất cả các chi
**Chi Thú xương mỏng (tê giác khổng lồ cổ đại)**, tên khoa học **_Elasmotherium_**, là một chi tê giác khổng lồ cao trung bình 2 m (7 ft), dài 4,5-5,0 m (16–17 ft), có một sừng dài khoảng 2
**_Ardipithecus_** là một chi thuộc tông Người có niên đại từ rất sớm. Hai loài được miêu tả trong các tài liệu là: _A. ramidus_, sinh sống khoảng 4,4 triệu năm trước trong thời kỳ
**_Homo ergaster_** là một loài đã tuyệt chủng của chi Người từng sinh sống ở miền đông và miền nam châu Phi vào đầu thế Pleistocen. Theo các nguồn khác nhau thì từ khoảng 1,8
**Chi Voi ma mút** hay **chi Voi lông dài** (danh pháp khoa học: **_Mammuthus_**) là một chi voi cổ đại đã bị tuyệt chủng. Tồn tại ở thế Pliocen, vào khoảng 4,8 triệu năm đến
**Megatherium** ( từ tiếng Hy Lạp _mega_ [μέγας], nghĩa là "lớn", và_therion_ [θηρίον], "thú") là một chi lười đất với kích cỡ như voi sống cách đây 2 triệu đến 8.000 năm về trước. Chi
**_Homo erectus_** (nghĩa là "người đứng thẳng", từ tiếng Latinh _ērigere_, "đứng thẳng"), còn được dịch sang tiếng Việt là **_trực nhân_**, là một loài người tuyệt chủng từng sinh sống trong phần lớn khoảng
**Đảo Norfolk** (, phát âm: ; Norfuk: _Norf'k Ailen_) là một đảo nhỏ tại Thái Bình Dương nằm giữa Úc, New Zealand, và New Caledonia, về phía đông của Evans Head, Úc theo đường chim
**Anthracotheriidae** là một họ động vật guốc chẵn đã tuyệt chủng, trông tương tự như hà mã và có quan hệ họ hàng gần với cả hà mã lẫn cá voi. Chi cổ đại với
**Tầng Gelasia** (hay **tầng Waltonia**) theo truyền thống là một bậc hay tầng của thế Pliocen (theo ICS). Tuy nhiên trong phiên bản 2009 về niên đại địa chất của ICS thì nó đã được
**Pliopithecidae** là một họ khỉ mũi hẹp hóa thạch. Chúng có nguồn gốc ở châu Phi, và sau đó lan rộng sang châu Âu, trước khi tuyệt chủng vào khoảng thời gian cách đây 10
**Nevado del Ruiz** (), còn được gọi là **La Mesa de Herveo** () là một ngọn núi lửa trên biên giới tỉnh Caldas và Tolima ở Colombia, cách thủ đô Bogotá khoảng 129 km (80 mi) về
right|thumb|[[Cổ địa lý học đại dương Tethys trong Rupelia tuổi (33,9–28,4 triệu năm trước). Các đường màu đen biểu thị các đường bờ biển ngày nay.]] **Biển Paratethys**, **Đại dương Paratethys** hay chỉ là **Paratethys**
Các khối đá của khối chính của Avalonia tương ứng với các ranh giới và bờ biển ngày nay nhưng trong các vị trí tương đối của chúng khi chúng ở giai đoạn cuối của
**Đảo Cocos** () là một hòn đảo ngoài khơi Costa Rica, đồng thời là một vườn quốc gia. Trên đảo không có dân thường mà chỉ có kiểm lâm. Đây là một huyện trong tổng
**Cappadocia** (; also **_Capadocia_**; , _Kappadokía_, from , , _Kapadovkia_, ) là một khu vực lịch sử ở Trung Anatolia, phần lớn tại các tỉnh Nevşehir, Kayseri, Kırşehir, Aksaray và Niğde, Thổ Nhĩ Kỳ. Theo
**_Macrauchenia_**, còn gọi là **Lạc đà không bướu dài**, là các loài động vật có vú móng guốc Nam Mỹ có cổ dài và chân dài, chân ba ngón, tiêu biểu cho bộ Litopterna. Các
**Canariomys** là một chi động vật gặm nhấm (chuột của thế giới cũ) đã tuyệt chủng, Chúng từng tồn tại trên đảo Tenerife và Gran Canaria (quần đảo Canary, Tây Ban Nha). Những con chuột
**Hồ Ohrid** ( , , , , _Liqeni i Pogradecit_) là một hồ nằm giữa biên giới tây nam Cộng hòa Macedonia và đông Albania. Đây là một trong những hồ sâu nhất và cổ
**Tầng Messina** trong niên đại địa chất là kỳ cuối cùng của thế Miocen, và trong thời địa tầng học là bậc trên cùng của thống Miocen và của hệ Neogen. Kỳ Messina tồn tại
**_Paranthropus_** (trong tiếng Hy Lạp _para_ nghĩa là "cận, gần", còn _anthropus_ nghĩa là "con người"), một chi đã tuyệt chủng trong tông Người, là một họ Người đi bằng hai chân, có thể là
**Hồ Karakul** hay **Qarokul** (tiếng Tajik: Қарoкул, "Hồ Đen"), là một hồ có đường kính khoảng 25 km (16 dặm), nằm trong dãy núi Pamir, Tajikistan. Nó nằm trong Vườn quốc gia Tajik, một Di sản
**_Pachycrocuta_** là một chi linh cẩu tiền sử. _Pachycrocuta brevirostris_ là loài lớn nhất và được nghiên cứu kỹ nhất, được ước tính có cân nặng trung bình là , bằng một con sư tử
**Mực lá** (_Sepioteuthis lessoniana_) là một loài mực ống quan trọng về thương mại. Giống như các thành viên khác của chi _Sepioteuthis_, mực là dễ dàng để phân biệt với mực khác ở chỗ
**Mực bánh bao** hay **mực lùn mập** (Danh pháp khoa học: **_Sepiolida_**) là một bộ mực gồm các loài loài mực xúc tu ngắn. Chúng sống trong vùng nước ven biển nông của Thái Bình
**Niihau** (tiếng Hawaii: ) là đảo cực tây và là đảo có người ở lớn thứ bảy trong quần đảo Hawaii. Nó cách Kauai về phía tây nam. Diện tích đảo là . Nhiều hồ
**Kỷ Neogen** () hay **kỷ Tân Cận** là một kỷ địa chất của đại Tân Sinh bắt đầu từ khoảng 23,03 ± 0,05 triệu năm trước (Ma). Kỷ Neogen diễn ra sau khi kỷ Paleogen
nhỏ|Vách đá cao 20 mét ở vịnh São Marcos, Alcântara, bang Maranhão, Brazil. Trầm tích nhóm Barreiras, tuổi Paleogen. **Kỷ Đệ Tam** (**_Tertiary_**) đã từng là một đơn vị chính trong niên đại địa chất,
**Kỷ Đệ Tứ** (trước đây gọi là **Phân đại Đệ Tứ**; tiếng Anh: **Quaternary**) là kỷ hiện tại và là kỷ gần đây nhất thuộc Đại Tân Sinh trong phân loại niên đại địa chất
**Alcidae** hoặc **Chim anca** là một họ chim trong bộ Choi choi. Các loài còn sinh tồn trong họ này dao động về kích thước từ nhỏ như _Aethia pusilla_ chỉ nặng 85 g và
nhỏ|Một con tê giác tại Thảo Cầm Viên thành phố Hồ Chí Minh nhỏ|phải|Một con tê giác tại Thảo Cầm Viên thành phố Hồ Chí Minh **Tê giác** hay con **tê** là những loài động
**Bộ Sẻ** (**Passeriformes**) là một bộ chim rất đa dạng, bao gồm hơn 2/3 số loài chim trên thế giới. Đôi khi còn được gọi là **chim đậu** hoặc **chim biết hót**, chúng được phân
nhỏ|Lòng chảo Paris (Paris Basin) **Lòng chảo Paris** là một trong những khu vực địa chất chính của Pháp, được hình thành từ kỷ Tam Điệp dựa trên nền tảng của chuyển động kiến tạo
**_Chalicotherium_** (tiếng Hy Lạp cổ χαλιξ / _khalix_, khalik-: sỏi / sỏi + θηρίον / _thērion_, nhỏ bé của θηρ / Ther: con thú) hay **_ngựa vượn khổng lồ_** là một chi tuyệt chủng duyệt