Bản đồ đại dương Paleo-Tethys, khoảng 280 Ma.
Đại dương Paleo-Tethys hay đại dương Palaeo-Tethys, đại dương Cổ-Tethys là một đại dương cổ đại trong đại Cổ sinh. Nó nằm giữa siêu lục địa Gondwana cổ đại và cái gọi là các địa thể Hun. Chúng được phân chia thành địa thể Hun châu Âu (ngày nay là lớp vỏ Trái Đất tại các phần thuộc Trung Âu (gọi là "Armorica") ngày nay và bán đảo Iberia) và địa thể Hun châu Á (ngày nay là lớp vỏ Trái Đất thuộc Trung Quốc và các phần ở miền đông Trung Á). Một phay biến dạng được coi là nguyên nhân đã chia tách hai địa thể này.
Hình thành và phát triển
Đại dương Paleo-Tethys bắt đầu hình thành khi 2 địa thể nhỏ nứt và tách ra khỏi Gondwana vào cuối kỷ Ordovic để bắt đầu chuyển động về phía Euramerica ở phía bắc, trong tiến trình mà đại dương Rheic (nằm giữa lục địa Euramerica và các địa thể Hun) bắt đầu suy giảm để cuối cùng biến mất. Trong kỷ Devon, phần phía đông của Paleo-Tethys đã mở rộng ra khi hai tiểu lục địa Hoa Bắc và Hoa Nam đều di chuyển về hướng bắc. Điều này làm cho đại dương Proto-Tethys, tiền nhiệm của Paleo-Tethys, bị suy giảm, cho đến Hậu Than đá, khi Hoa Bắc va chạm với lục địa Siberia. Tuy nhiên, vào cuối kỷ Devon, một đới ẩn chìm đã phát triển ở phía nam các địa thể Hun, nơi mà lớp vỏ đại dương của Paleo-Tethys bị chìm xuống. Gondwana đã bắt đầu chuyển động về phía bắc, trong một tiến trình mà phần phía tây của Paleo-Tethys khép lại.
Trong kỷ Than đá, va chạm lục địa diễn ra giữa Euramerica và địa thể Hun châu Âu, tại Bắc Mỹ nó được gọi là kiến tạo sơn Allegheny, tại châu Âu là kiến tạo sơn Variscia. Đại dương Rheic đã hoàn toàn biến mất và phần phía tây của Paleo-Tethys đang khép lại.
Vào cuối kỷ Permi, mảng Cimmeria nhỏ và thuôn dài (ngày nay là lớp vỏ thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Tây Tạng và các phần của Đông Nam Á) đã tách ra từ Gondwana (khi đó là một phần của Pangaea). Ở phía nam của lục địa Cimmeria thì một đại dương mới, Neo-Tethys, đã được tạo ra. Vào cuối kỷ Trias, tất cả những gì còn lại của đại dương Paleo-Tethys chỉ là một eo biển hẹp. Vào đầu kỷ Jura, trong vai trò là một phần của kiến tạo sơn Alps, lớp vỏ đại dương của Paleo-Tethys bị chìm xuống phía dưới mảng Cimmeria, khép đại dương này lại từ phía tây sang phía đông. Dấu tích còn lại cuối cùng của đại dương Paleo-Tethys có thể là lớp vỏ đại dương dưới đáy biển Đen.
Đại dương Paleo-Tethys nằm tại nơi mà Ấn Độ Dương và Nam Á ngày nay đang nằm.
Hình ảnh
Hình:380 Ma plate tectonic reconstruction.png|Đại dương Paleo-Tethys vào khoảng 380 Ma, giữa kỷ Devon.
Hình:290_global.png|Hình đại dương Paleo-Tethys, trước khi mảng Cimmeria di chuyển về phía bắc, làm cho đại dương này bị khép lại, khoảng 290 ~180 Ma (Tiền Permi).
Hình:249_global.png|Mảng Cimmeria bắt đầu chuyển động về phía bắc, khép đại dương Paleo-Tethys lại, trong khi đại dương Neo-Tethys bắt đầu mở rộng ra từ phía nam, khoảng 249 Ma (ranh giới Permi-Trias).
Hình:230 Ma plate tectonic reconstruction.png|Cimmeria, ở phía bắc là Palaeotethys và miền nam là NeoTethys. Khoảng 230 Ma (Trias).
## Lưu ý
Trong các tài liệu cũ, thường người ta không phân biệt _Palaeo-Tethys_ với các đại dương có sau nó như (Neo-) Tethys. Tuy nhiên, sau khi có các mô hình mảng kiến tạo mới hơn thì người ta phân biệt chúng thành hai đại dương, nằm xấp xỉ trên cùng một vị trí với Neo-Tethys xuất hiện trong kỷ Permi nằm giữa Gondwana và Cimmeria, trước khi hình thành đại dương Tethys.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Bản đồ đại dương Paleo-Tethys, khoảng 280 Ma. **Đại dương Paleo-Tethys** hay **đại dương Palaeo-Tethys**, **đại dương Cổ-Tethys** là một đại dương cổ đại trong đại Cổ sinh. Nó nằm giữa siêu lục địa Gondwana
**Đại dương Proto-Tethys** hay **đại dương Tiền-Tethys** là một đại dương cổ đã tồn tại vào cuối kỷ Ediacara tới kỷ Than đá (khoảng 550 tới 330 Ma). Nó là đại dương tồn tại trước
Pha đầu tiên trong hình thành đại dương Tethys: Biển Tethys (đầu tiên) chia [[Pangaea thành hai siêu lục địa là Laurasia và Gondwana.]] **Biển Tethys** hay **đại dương Tethys** là một đại dương trong
nhỏ|Mảng Cimmeria vẫn còn gắn với [[Gondwana. ~290 Ma (Tiền Permi)]] **Mảng Cimmeria** là một mảng kiến tạo cổ đại bao gồm các phần ngày nay thuộc Anatolia (Tiểu Á), Iran, Afghanistan, Tây Tạng, Đông
**Cimmeria** là một tiểu lục địa cổ tồn tại vào khoảng 200-300 triệu năm trước. Nó rạn nứt ở phía bắc của Gondwana trong Hậu Than đá- Tiền Permi (khoảng 300 Ma) và tiến về
**Nền cổ Hoa Nam** hay **lục địa Hoa Nam**, **nền cổ Dương Tử** là một lục địa hay nền cổ cổ đại, bao gồm Nam và Đông nam Trung Quốc (vì thế mà có tên
**Dãy núi Côn Lôn** hay **Côn Lôn sơn** (tiếng Trung phồn thể: 崑崙山, giản thể: 昆仑山, bính âm: Kūnlún Shān) là một trong những dãy núi dài nhất tại châu Á, nó trải dài trên
nhỏ|phải|[[Sa thạch từ kỷ Tam Điệp.]] **Kỷ Trias** (phiên tiếng Việt: **Triat**) hay **kỷ Tam Điệp** là một kỷ địa chất kéo dài từ khoảng 200 đến 251 triệu năm trước. Là kỷ đầu tiên
Biểu đồ thang thời gian địa chất. **Lịch sử địa chất Trái Đất** bắt đầu cách đây 4,567 tỷ năm khi các hành tinh trong hệ Mặt Trời được tạo ra từ tinh vân mặt trời,
nhỏ|phải|Cimmeria va chạm với các khối Hoa Bắc và Hoa Nam, khép lại dại dương Paleo-Tethys nằm giữa chúng và tạo ra các dãy núi. Bản đồ khoảng 100 Ma. **Kiến tạo sơn Cimmeria** là
**Kỷ Than Đá**, **kỷ Thạch Thán** hay **Kỷ Cacbon (Carbon)** (**Carboniferous**) là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, kéo dài từ khi kết thúc kỷ Devon, vào khoảng 359,2 ±
**Trung Jura** là thế thứ hai của kỷ Jura, kéo dài từ 176 đến 161 triệu năm trước. Trong thang phân vị thạch địa tầng châu Âu, đá có niên đại ở Trung Jura được
**Kỷ Devon** (**kỷ Đề-vôn** hay **kỷ Đê-vôn**) là một kỷ địa chất trong đại Cổ Sinh. Nó được đặt theo tên gọi của khu vực Devon, Anh, là nơi mà các loại đá thuộc kỷ
**Kỷ Silur** hay phiên âm thành **kỷ Xi-lua (Silua)** là một kỷ chính trong niên đại địa chất kéo dài từ khi kết thúc kỷ Ordovic, vào khoảng 443,8 ± 1,5 triệu (Ma) năm trước,
thumb|left **Kỷ Ordovic** (phiên âm tiếng Việt: **Ocđôvic**) là kỷ thứ hai trong số sáu (bảy tại Bắc Mỹ) kỷ của đại Cổ Sinh. Nó diễn ra sau kỷ Cambri và ngay sau nó là
**Thế Paleocen** hay **thế Cổ Tân** ("bình minh sớm của gần đây"), là một thế kéo dài từ khoảng 66,0 ± 0,3 triệu năm trước (Ma) tới khoảng 56,0 ± 0,2 Ma. Nó là thế