Thế Miocen () hay thế Trung Tân là một thế địa chất kéo dài từ khoảng 23,03 tới 5,33 triệu năm trước (Ma). Giống như các thế địa chất khác, các tầng đá xác định điểm bắt đầu và kết thúc đã được nhận dạng khá rõ nhưng niên đại chính xác của các thời điểm này là không chắc chắn. Thế Miocen được Charles Lyell đặt tên theo tên gọi trong tiếng Hy Lạp μείων (meioon, ít hơn, kém hơn) và καινός (kainos, mới) và có nghĩa là "ít gần đây" do nó có 18% (ít hơn so với thế Pliocen) các dạng động vật không xương sống hiện đại sinh sống dưới biển. Thế Miocen diễn ra sau thế Oligocen và ngay sau nó là thế Pliocen. Thế Miocen là thế địa chất đầu tiên của kỷ Neogen.
Các ranh giới của thế Miocen không được thiết lập bằng các sự kiện dễ dàng nhận dạng ở quy mô toàn thế giới mà bằng các ranh giới khu vực cục bộ giữa thế Oligocen ấm áp hơn và thế Pliocen lạnh hơn.
Phân chia
Các tầng động vật của thế Miocen từ trẻ nhất tới cổ nhất thông thường được đặt tên theo quy ước của Ủy ban quốc tế về địa tầng học (ICS):
Các tầng phân chia này trong phạm vi thế Miocen được định nghĩa bằng sự phổ biến tương đối của các loài khác nhau của các vi hóa thạch chứa đá vôi (các mảng nhỏ canxit lột ra bởi tảo nâu đơn bào) và trùng lỗ (Foraminifera - các sinh vật nguyên sinh đơn bào với các lớp vỏ chẩn đoán). Mỗi cặp hai tầng tạo ra 3 phân thế là Tiền, Trung và Hậu Miocen.
Ở phần lớn khu vực Bắc Mỹ, các tầng động vật được xác định theo quần động vật có vú trên đất liền (Các niên đại động vật có vú đất liền Bắc Mỹ hay NALMA). Chúng đè lên các ranh giới của thế Miocen và Oligocen/Pliocen:
Các vị trí ở California, có nguồn gốc từ mảng Farallon, lại có trình tự khác và cũng đè lên các ranh giới thế địa chất:
Tại các quốc gia khác như Nhật Bản, Australia, New Zealand v.v người ta cũng sử dụng các sơ đồ khác để phân chia các địa tầng của thế Miocen.
Cổ địa lý học
Các lục địa vẫn tiếp tục trôi dạt về phía vị trí như hiện nay của chúng. Trong số các đặc trưng địa chất hiện đại, chỉ duy nhất cầu đất liền giữa Nam Mỹ và Bắc Mỹ là chưa có, mặc dù Nam Mỹ đã tới gần đới ẩn chìm phía tây ở Thái Bình Dương, gây ra cả sự nâng lên của dãy núi Andes lẫn sự mở rộng về phía nam của bán đảo Trung Mỹ.
Kiến tạo sơn diễn ra ở cả miền tây Bắc Mỹ lẫn châu Âu. Các trầm tích lục địa và đại dương trong thế Miocen là phổ biến trên toàn thế giới với những phần trồi lên từ đại dương là phổ biến gần các bờ biển ngày nay. Các phần lộ thiên lục địa đã được nghiên cứu kỹ diễn ra tại Great Plains (ĐẠi Bình nguyên) ở Bắc Mỹ và ở Argentina.
Ấn Độ tiếp tục va chạm với châu Á, tạo ra thêm nhiều dãy núi. Đại dương Tethys tiếp tục thu hẹp lại và sau đó biến mất khi châu Phi va chạm với đại lục Á-Âu tại khu vực ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ-Arabia vào khoảng 19 tới 12 Ma. Sự nâng lên sau đó của các dãy núi ở miền tây khu vực Địa Trung Hải và sự rút xuống toàn cầu của mực nước biển kết hợp với nhau gây ra sự khô kiệt tạm thời của Địa Trung Hải (được biết đến như là khủng hoảng mặn Messina) vào thời gian gần cuối thế Miocen.
Xu hướng toàn cầu là nghiêng về phía gia tăng sự khô hạn, gây ra chủ yếu bởi sự lạnh đi toàn cầu làm giảm khả năng hấp thụ hơi ẩm của khí quyển. Sự nâng lên của Đông Phi vào cuối thế Miocen chịu một phần trách nhiệm trong việc làm thu hẹp lại các rừng mưa nhiệt đới trong khu vực này, còn Australia cũng khô hơn do nó đã di chuyển vào khu vực ít mưa vào cuối thế Miocen.
Sự sống
Quần thực vật
Các đồng cỏ có sự mở rộng lớn; còn các cánh rừng là nạn nhân của khí hậu lạnh và khô hơn về mặt tổng thể nói chung. Cỏ cũng đa dạng hóa mạnh, đồng tiến hóa với các động vật ăn cỏ to lớn, như động vật nhai lại. Vào khoảng 7 tới 6 Ma, đã diễn ra sự gia tăng đột ngột của các loài cỏ có khả năng chuyển hóa dioxide cacbon hiệu quả hơn nhưng vẫn còn giàu silica, gây ra sự tuyệt chủng của các động vật ăn cỏ lớn trên phạm vi toàn thế giới.
Quần động vật
Các quần động vật đại dương và đất liền là tương đối hiện đại, mặc dù động vật có vú trong lòng đại dương là chưa đông đảo. Chỉ tại các khu vực cô lập như Nam Mỹ và Australia là diễn ra sự phân hóa rộng của quần động vật.
Động vật có vú là hiện đại, với chó sói, gấu trúc Mỹ, ngựa, hải ly, hươu, lạc đà, cá voi có thể nhận dạng giống như ngày nay.
Các loài quạ, vịt, chim anca, gà gô trắng và cú có thể nhận dạng giống như ngày nay cũng xuất hiện trong thế Miocen. Vào cuối thế, gần như tất cả các họ chim hiện đại có lẽ đã có mặt; chỉ một số ít hóa thạch chim hậu Miocen mà không thể đặt vào cây tiến hóa với sự chắc chắn đầy đủ đơn giản chỉ là do được bảo tồn quá kém chứ không phải là do quá lập lờ trong đặc trưng. Các loài chim biển đạt tới đỉnh cao đa dạng của chúng trong hành trình của thế địa chất này.
Một nhóm tảo nâu, gọi chung là tảo bẹ, cũng sinh sôi mạnh, hỗ trợ cho các loài mới của sự sống trong lòng đại dương, bao gồm rái cá, cá và nhiều dạng động vật không xương sống. Các dạng cá voi cũng đa dạng hóa, và một vài chi hiện đại đã xuất hiện, chẳng hạn như cá nhà táng. Các dạng động vật chân màng (Pinnipedia), xuất hiện vào gần cuối thế Oligocen, trở thành thủy sinh nhiều hơn.
Khoảng 100 loài khỉ dạng người (Hominoidea) sinh sống trong thời gian này. Chúng chiếm lĩnh phần lớn Cựu thế giới và đa dạng về kích thước, thức ăn, đặc trưng giải phẫu. Do có ít chứng cứ hóa thạch nên một điều không rõ ràng là (những) loài khỉ hình người nào đã tạo ra nhánh Hominoidea hiện đại, nhưng chứng cứ phân tử chỉ ra rằng loài khỉ hình người đó đã sinh sống trong khoảng 15 tới 12 Ma.
Trong lòng đại dương, các dạng cá mập hiện đại xuất hiện vào thời gian này, bao gồm cả cá mập răng lớn (Carcharodon megalodon) khổng lồ. Các dạng cá voi, như cá heo, cá voi, và cá heo chuột đã tiến hóa. Tuy nhiên, các tổ tiên của chúng, nhóm Archaeoceti, lại ít phổ biến dần và cuối cùng bị tuyệt chủng.
Đại dương
Đông Nam Cực có một số sông băng vào đầu thế Miocen (23-15 Ma). Các đại dương lạnh đi một phần là do sự hình thành của hải lưu vòng Nam Cực, và khoảng 15 triệu năm trước thì chỏm băng ở nam bán cầu đã bắt đầu phát triển để có dạng như ngày nay. Chỏm băng Greenland phát triển muộn hơn, trong thế Pliocen, vào khoảng 3 triệu năm trước.
Phá vỡ Trung Miocen
Thuật ngữ phá vỡ Trung Miocen hay tuyệt chủng Trung Miocen hoặc đỉnh cao tuyệt chủng Trung Miocen là chỉ làn sóng tuyệt chủng các dạng sự sống đất liền hay thủy sinh đã diễn ra vào khoảng giữa thế Miocen, khoảng 14,8 tới 14,5 Ma, trong thời kỳ thuộc tầng Langhe.
Các nhà nghiên cứu tranh cãi về quy mô đầy đủ của tuyệt chủng giữa thế Miocen; những người cực đoan nhất ước tính khoảng 30% các chi động vật có vú có vào đầu thế Miocen bị tuyệt chủng trong phá vỡ này — mặc dù các nhà khoa học khác ước tính sự kiện này ít trầm trọng hơn. Các nguyên nhân có thể vẫn chỉ là ức đoán: một số nhà nghiên cứu tập trung vào hậu quả của va chạm do vẫn thạch đã tạo ra hố va chạm Nördlinger Ries ở tây nam Đức, có niên đại trong thời kỳ này. Hoạt động của núi lửa cũng được lưu tâm; cụ thể là khối lượng tro núi lửa toàn cầu đạt tới cao điểm vào thời gian này, đáng chú ý là từ Thung lũng rạn nứt lớn ở Đông Phi, với sự lạnh đi của khí hậu toàn cầu sau đó, và trong dải băng Đông Nam Cực. Có thặng dư O18 trong thời kỳ Trung Miocen, nghĩa là sự gia tăng tương đối của các đồng vị nặng của oxy, đã được ghi nhận tại Thái Bình Dương, Nam Đại Dương và nam Đại Tây Dương.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Thế Miocen** () hay **thế Trung Tân** là một thế địa chất kéo dài từ khoảng 23,03 tới 5,33 triệu năm trước (Ma). Giống như các thế địa chất khác, các tầng đá xác định
**Tuyệt chủng Miocen giữa** đề cập đến làn sóng tuyệt chủng của các loài sống trên cạn và dười nước xảy ra vào khoảng Miocen giữa, cách đây 14,8 đến 14,5 triệu năm, trong tầng
**Thế Oligocen** hay **thế Tiệm Tân** là một thế địa chất kéo dài từ khoảng 33,9 tới 23 triệu năm trước (Ma). Giống như các thế địa chất khác, các tầng đá xác định thế
**Thế Pliocen** () hay **thế Pleiocen** hoặc **thế Thượng Tân** là một thế địa chất, theo truyền thống kéo dài từ khoảng 5,332 tới 1,806 triệu năm trước (Ma). Tuy nhiên, trong phiên bản 2009
**Họ Kền kền Tân thế giới** (danh pháp khoa học: **_Cathartidae_**) là một họ chim chứa 7 loài, phân bố trong 5 chi, ngoại trừ 1 chi với 3 loài thì tất cả các chi
**_Platybelodon_** ("ngà xiên dẹp") là một chi voi trong họ Gomphotheriidae của Bộ Có vòi. Nó sống vào thế Miocen, khoảng 15-4 triệu năm trước, và phân bố tại châu Phi, châu Âu, châu Á
**Tầng Serravalle** trong niên đại địa chất là kỳ giữa của thế Miocen, và trong thời địa tầng học là bậc giữa của thống Miocen. Kỳ Serravalle tồn tại từ ~ Ma đến Ma (Ma:
**Tầng Aquitane** trong niên đại địa chất là kỳ đầu tiên của thế Miocen, và trong thời địa tầng học là bậc dưới cùng của thống Miocen và của hệ Neogen. Kỳ Aquitane tồn tại
**Danuvius guggenmosi** là một loài vượn dạng người lớn từ đất sét giữa Thế Miocen và Miocen muộn 11,6 triệu năm tuổi ở miền nam nước Đức. Khu vực vào thời điểm này có lẽ
**Tầng Messina** trong niên đại địa chất là kỳ cuối cùng của thế Miocen, và trong thời địa tầng học là bậc trên cùng của thống Miocen và của hệ Neogen. Kỳ Messina tồn tại
**Tầng Tortona** trong niên đại địa chất là kỳ gần cuối của thế Miocen, và trong thời địa tầng học là bậc gần cuối của thống Miocen. Kỳ Tortona tồn tại từ ~ Ma đến
**Tầng Langhe** trong niên đại địa chất là kỳ giữa của thế Miocen, và trong thời địa tầng học là bậc giữa của thống Miocen. Kỳ Langhe tồn tại từ ~ Ma đến Ma (Ma:
**Tầng Burdigala** trong niên đại địa chất là kỳ gần đầu tiên của thế Miocen, và trong thời địa tầng học là bậc áp dưới cùng của thống Miocen và của hệ Neogen. Kỳ Burdigala
**_Metamynodon_** là một chi đã tuyệt chủng thuộc họ Amynodontidae, bộ Guốc lẻ (_Perissodactyla_), và thuộc về số các chi sinh tồn lâu nhất của họ Amynodontidae, xuất hiện lần đầu tiên vào thế Eocen,
**? _Nycticebus linglom**_ là một loài linh trưởng mũi ướt hóa thạch có niên đại từ thế Miocen, được phát hiện tại Thái Lan. Loài này được cho là có quan hệ gần gũi với loài
**_Deinogalerix_** (tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là "_khủng khiếp_/_khủng bố_" + hậu tố _Galerix_) là một chi thú tiền sử đã tuyệt chủng, chúng thuộc phân họ chuột chù núi cao (Galericinae) của
**_Alopias palatasi_** ("con cáo của Palatas"), là một loài cá nhám đuôi dài đã tuyệt chủng sống trong khoảng từ 20,44 đến 13,7 triệu năm trước trong Thế Miocen và được biết đến vì là
**_Aceratherium_** (tiếng Hy Lạp: "quái thú" (therion) "không có (a) sừng" (keratos)) là một chi tê giác đã tuyệt chủng thuộc phân họ Aceratheriinae sống ở lục địa Á-Âu vào thế Miocen.
Trong địa chất học, một **thế** hay một **thế địa chất** là một đơn vị thời gian địa chất, phân chia các kỷ địa chất thành các khoảng thời gian nhỏ hơn, thường là vài
**Juxia sharamurenense** (Hoàng Học Thi (黄学诗), Đồng Vĩnh Sinh (童永生), Vương Cảnh Văn (王景文) và ctv., 1998) là danh pháp khoa học của một loài đã tuyệt chủng thuộc phân họ Indricotheriinae của họ Hyracodontidae,
**_Syndyoceras_** là một chi nhỏ tuyệt chủng của Artiodactyla, thuộc họ Protoceratidae, đặc hữu ở trung tâm Bắc Mỹ từ Thế Miocen (24,8 - 20,6 Ma), tồn tại khoảng 4,2 triệu năm. ## Phát hiện
thumb|right|Hộp sọ _eximia_ **_Adcrocuta_** là một chi động vật ăn thịt trên cạn đã tuyệt chủng thuộc họ Linh cẩu sống trong kỷ Miocen.
**_Moropus_** (nghĩa là "chân chậm") là một chi động vật có vú đã tuyệt chủng, thuộc về một nhóm tên là thú răng sỏi, là nhóm động vật thuộc bộ Guốc lẻ (_Perissodactyla_), trong đó
**Pliopithecidae** là một họ khỉ mũi hẹp hóa thạch. Chúng có nguồn gốc ở châu Phi, và sau đó lan rộng sang châu Âu, trước khi tuyệt chủng vào khoảng thời gian cách đây 10
**_Chalicotherium_** (tiếng Hy Lạp cổ χαλιξ / _khalix_, khalik-: sỏi / sỏi + θηρίον / _thērion_, nhỏ bé của θηρ / Ther: con thú) hay **_ngựa vượn khổng lồ_** là một chi tuyệt chủng duyệt
**Quần đảo Auckland** (Maori: **Motu Maha** hay **Maungahuka**) là một quần đảo nằm trong các quần đảo hẻo lánh của New Zealand thuộc Các hòn đảo nằm gần Nam Cực. Quần đảo này bao gồm
**Megalodon** (nghĩa là "răng lớn" từ tiếng Hy Lạp cổ đại) là một loài cá mập khổng lồ đã tuyệt chủng thuộc lớp Cá sụn, sống cách nay khoảng 15,9 tới 2,6 triệu năm vào thời
**Họ Cá đuôi gai** (tên khoa học: **_Acanthuridae_**) là một họ cá theo truyền thống được xếp trong phân bộ Acanthuroidei của bộ Cá vược (Perciformes). Họ này có khoảng 84 loài thuộc 6 chi,
**Núi Hampton** là một ngọn núi lửa hình khiên có miệng núi lửa hình tròn chứa đầy băng. Nó là một ngọn núi lửa đôi với Đỉnh Whitney nằm về phía tây bắc, nó phun
**_Migmacastor_** là một chi đã tuyệt chủng trong họ Hải ly, chỉ được biết đến từ mẫu vật của 1 loài có danh pháp **_Migmacastor procumbodens_**. Mẫu vật duy nhất được thông báo là một
**Malpelo** là một hòn đảo nhỏ ở phía Đông Thái Bình Dương, cách lục địa Colombia khoảng 500 km (310 dặm) về phía Tây. Ngoại trừ một đồn quân sự nhỏ của Lực lượng Quân đội
**_Proailurus_** là một chi thú ăn thịt tuyệt chủng sống ở châu Âu và châu Á khoảng 25 triệu năm trước, trong Oligocen muộn và Miocen muộn. Hóa thạch được tìm thấy ở Mông Cổ,
**_Hyaenodon_** ("linh cẩu - răng") là loại chi Hyaenodontidae, một nhóm các động vật có vú đã tuyệt chủng hóa thạch động vật ăn thịt từ Âu-Á, Bắc Mỹ và châu Phi, với các loài
**Megatherium** ( từ tiếng Hy Lạp _mega_ [μέγας], nghĩa là "lớn", và_therion_ [θηρίον], "thú") là một chi lười đất với kích cỡ như voi sống cách đây 2 triệu đến 8.000 năm về trước. Chi
Các khối đá của khối chính của Avalonia tương ứng với các ranh giới và bờ biển ngày nay nhưng trong các vị trí tương đối của chúng khi chúng ở giai đoạn cuối của
**Gấu mặt ngắn khổng lồ** hay **gấu Arctodus** (tiếng Hy Lạp, "gấu răng") là loài gấu đặc hữu đã tuyệt chủng trong khoảng thời gian Thế Pleistocen, kỷ băng hà có niên đại cách đây
**_Australopithecus bahrelghazali_** là loài Vượn người phương nam thuộc phân tông Hominina đã tuyệt chủng. Hóa thạch 3,5 triệu năm (thuộc thế Pliocen) của loài này được phát hiện tại Koro Toro, Bahr el Gazel,
**Tiểu bộ Cá voi cổ** (danh pháp khoa học: **_Archaeoceti_**) là một nhóm cận ngành chứa các dạng cá voi cổ đã phát sinh ra các dạng cá voi hiện đại (_Autoceta_). Từng có thời
**Cappadocia** (; also **_Capadocia_**; , _Kappadokía_, from , , _Kapadovkia_, ) là một khu vực lịch sử ở Trung Anatolia, phần lớn tại các tỉnh Nevşehir, Kayseri, Kırşehir, Aksaray và Niğde, Thổ Nhĩ Kỳ. Theo
__NOTOC__ **Nihoa** (tiếng Anh và tiếng Hawaii: _Nihoa_) hay **đảo Bird** (_Bird Island_) hoặc **Moku Manu** là hòn đảo cao nhất trong mười đảo và rạn san hô vòng ở quần đảo Tây Bắc Hawaii.
**_Macrauchenia_**, còn gọi là **Lạc đà không bướu dài**, là các loài động vật có vú móng guốc Nam Mỹ có cổ dài và chân dài, chân ba ngón, tiêu biểu cho bộ Litopterna. Các
**_?Oryzomys pliocaenicus_** là một loài động vật gặm nhấm hóa thạch từ Hemphillian (cuối thế Miocen) của vùng Kansas, miền trung nước Mỹ. Hóa thạch được phát hiện vào năm 1935 và mô tả năm
**Tầng Zancle** trong niên đại địa chất là kỳ đầu của thế Pliocen, và trong thời địa tầng học là bậc dưới của thống Pliocen. Kỳ Zancle tồn tại từ ~ Ma đến Ma (Ma:
nhỏ|trái|Một mẫu vật _Teleoceras fossiger_ tại [[Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ, Washington D.C]] **_Teleoceras_** là một chi tê giác ăn cỏ sống ở Bắc Mỹ trong thế Miocen, tuyệt chủng cách
**Anthracotheriidae** là một họ động vật guốc chẵn đã tuyệt chủng, trông tương tự như hà mã và có quan hệ họ hàng gần với cả hà mã lẫn cá voi. Chi cổ đại với
__NOTOC__ **Rạn san hô vòng Pearl và Hermes** (tiếng Anh: _Pearl and Hermes Atoll_, tiếng Hawaii: _Holoikauaua_) là một rạn san hô vòng thuộc quần đảo Tây Bắc Hawaii. Nằm cách rạn san hô vòng
**Thú Saint Bathans** là một loài động vật có vú cổ xưa đã tuyệt chủng chưa được biết đến từ thế Miocene của New Zealand tại Khu bảo tồn Saint Bathans, đáng chú ý là
**_Phoberomys pattersoni_** là một loài gặm nhấm đã tuyệt chủng đã sinh sống ở vùng đồng bằng châu thổ sông Orinoco khoảng 8 triệu năm trước. Đây là loài lớn nhất trong chi khoảng 8
**Voi ma mút phương nam**, tên khoa học **_Mammuthus meridionalis_**, là một loài voi ma mút đã tuyệt chủng. nhỏ|trái|Bộ xương _Mammuthus meridionalis_, _[[Muséum national d'histoire naturelle_, Paris.]] Với chiều cao khoảng 4,50 m (15 ft), _M.
**Đảo Lan Tự** (Tiếng Yami: _Ponso no Tao_ hoặc _Pongso no Tao_; ) là một hòn đảo núi lửa rộng 45 km² ngoài khơi bờ biển đông nam Đài Loan, ngăn cách với tỉnh đảo Batanes