Chung Quân (chữ Hán: 终军, ? – 112 TCN), tự Tử Vân, người quận Tế Nam , nhà văn, nhà ngoại giao, quan viên đời Tây Hán. Ông tham gia sứ đoàn đến Nam Việt, bị tể tướng Lữ Gia sát hại.
Tiểu sử
Quân từ nhỏ hiếu học, nhờ biện luận và thuộc văn mà nổi tiếng ở trong quận. Lên 18 tuổi, Quân được chọn làm Bác sĩ đệ tử . Quân đến phủ của thái thú để nhận giấy thông hành về kinh, thái thú nghe tiếng ông có tài lạ, triệu kiến Quân, rất lấy làm kỳ, cùng ông kết giao. Quân chào thái thú mà đi, đến Trường An dâng thư nghị luận quốc sự. Hán Vũ đế đọc văn của Quân thì lấy làm lạ, cho ông làm Yết giả Cấp sự trung. Quân được cầm cờ tiết, làm sứ giả đến các nước quận, ghi chép nhưng điều trông thấy, sau khi quay về thì dâng lên, Vũ đế rất hài lòng.
Năm 122 TCN , Quân theo Vũ đế ghé Ung Châu tế Ngũ Chí , bắt được lân trắng, 1 sừng 5 móng. Bấy giờ người ta còn tìm được một cây gỗ lạ, trên thân mọc cành, đầu cành cắm trở lại thân. Vũ đế lấy làm lạ, hỏi khắp quần thần; Quân dâng lên Bạch lân kỳ mộc đối (白麟奇木对), đáp rằng đây là điềm lành bởi bốn phương quy phục, quốc thái dân an. Vũ đế lấy làm lạ, vì vậy đổi niên hiệu là Nguyên Thú. Vài tháng sau, thủ lĩnh ở đất Việt là Cố Quy Nghĩa Việt hầu, Nghiêm Giáp và ở Hung Nô là Côn Tà vương đưa bộ tộc đến hàng, đương thời đều cho là Quân nói trúng .
Trong niên hiệu Nguyên Đỉnh (116 TCN – 111 TCN), bác sĩ Từ Yển tuần thị phong tục các nơi, giả thác chiếu mệnh, cho phép hai nước quận Giao Đông , Lỗ sản xuất muối, sắt. Yển trở về, tâu lại việc ấy, được dời làm Thái Thường thừa. Ngự sử đại phu Trương Thang hặc Yển, khép tội chết. Yển biện bạch, Thang không phản bác được; Vũ đế ủng hộ Thang, bèn sai Quân cật vấn Yển. Quân bẻ gãy tất cả lý lẽ của Yển, khiến ông ta đuối lý mà nhận tội. Quân nhân đó đòi giao Yển cho ngự sử luận tội, Vũ đế đồng ý. Vũ đế khen ngợi những lời cật vấn của Quân, giáng chiếu lấy ông làm Ngự sử đại phu.
Đương lúc triều đình phái sứ giả đi Hung Nô, Quân tự xin rằng: "Quân chưa có công lao gì đáng kể , được xếp làm Túc vệ, ăn lộc 5 năm. Biên cảnh vào lúc có cảnh báo chiến sự, thần nên mặc giáp cầm giáo, đón tên đạn, làm tiền phong. Tư chất kém cỏi không quen việc nhà binh, nay nghe sắp sai sứ giả đi Hung Nô, thần nguyện dốc hết tinh lực, giúp đỡ sứ giả, trình bày lành – dữ cho Thiền vu của Hung Nô. Thần tuổi trẻ tài hèn, ra ngoài làm quan, không đủ để đảm đương một phương, riêng không chịu nổi phiền muộn." Vũ đế giáng chiếu hỏi Quân trình bày lành – dữ như thế nào, sau khi nghe ông trả lời thì lấy làm lạ, cất nhắc ông làm Gián đại phu.
Năm Nguyên Đỉnh thứ 4 (113 TCN) , Vũ đế sai sứ đi Nam Việt, nhằm thuyết phục Triệu Ai vương vào chầu, chấp nhận nội phụ nhà Hán. Quân lại xin làm sứ giả, được tham gia sứ đoàn đến Nam Việt. Ban đầu Cù vương thái hậu đồng ý (Ai vương mới lên 5 tuổi), nhưng tể tướng Lữ Gia không phục; sang năm (112 TCN) ): ý nói người trẻ tuổi có chí lớn.
*: Nguồn gốc: Sử cũ chép, vào lúc Quân từ Tế Nam vào kinh đô theo học Bác sĩ, đi ra cửa Hàm Cốc, viên lại ở đấy đưa cho ông một tấm Nhu, Quân hỏi thứ này để làm gì, được giải thích là để khớp thẻ khi quay về, ông nói: "Đại trượng phu sang tây, trọn đời không quay lại." Rồi ném tấm Nhu mà đi. Sau đó Quân làm Yết giả, đi sứ các nước quận ở phía đông, trở vào cửa Hàm Cốc, viên lại ở đấy lập tức nhận ra, nói: "Sứ giả này là anh học trò bỏ Nhu ngày trước."
- Vạn lý đồng phong (万里同风, muôn dặm cùng phong tục): ý nói thiên hạ thống nhất.
*: Nguồn gốc: Sử cũ chép, Bác sĩ Từ Yển tuần thị phong tục các nơi, giả thác chiếu mệnh, cho phép hai nước quận Giao Đông, Lỗ sản xuất muối, sắt. Ngự sử đại phu Trương Thang hặc Yển giả thác chiếu mệnh là mối hại lớn, tội đáng chết . Yển cho rằng theo nghĩa lý đời Xuân Thu, đại phu ra nước ngoài công cán, cần phải quan tâm những việc an định xã tắc, bảo vệ muôn dân, nên được phép độc đoán thi hành . Thang kiên trì thực thi pháp luật, nhưng không thể bác bỏ luận điệu của Yển. Vũ đế bèn giáng chiếu sai Quân cật vấn Yển; ông nói: "Khi xưa lề thói các nước chư hầu khác biệt, trăm dặm không thông tin tức, khi có sự việc sính – hội , tình thế an – nguy, hít vào thở ra thì đã thay đổi, nên mới cho phép không nhận mệnh mà làm theo ý mình; nay thiên hạ là một, muôn dặm cùng phong tục, nên đời Xuân Thu có câu ‘vương giả vô ngoại’ . Yển tuần thị bên trong biên giới, nói rằng ra nước ngoài sao được? Còn muối – sắt, quận có thừa mứa, cho dù 2 nước bỏ phế, nước nhà cũng không ảnh hưởng gì, mà lấy ‘an định xã tắc, bảo vệ muôn dân’ làm lý do, sao được?" Lại cật vấn Yển rằng: "Giao Đông nam gần Lang Da, bắc kề Bắc Hải , nước Lỗ tây dựa Thái Sơn, đông có Đông Hải , nhận muối – sắt những nơi ấy. Yển đã tính toán nhân khẩu và ruộng đất của 4 quận, tổng kết ra số lượng vật dụng và muối ăn của họ, mà biết không đủ cung cấp cho 2 quận hay sao? Theo tình hình là có thừa, thì quan lại không làm việc à? Sao lại nói vậy? Yển giả thác chiếu mệnh mà đúc luyện, muốn kịp vụ mùa xuân cấp cho dân dụng cụ đấy. Nay việc đúc luyện của nước Lỗ, cần phải sắp xếp trước vật liệu, đến mùa thu mới có thể nổi lửa. Lời này với sự thật trái ngược, không phải sao? Yển từ trước đã 3 lần tấu, không có chiếu, không trả lời tức là không đồng ý, nhưng lại giả thác bày ra oai phúc, để lấy lòng dân, cầu danh lấy dự, đây là điều bậc thánh sáng suốt ắt phán tội chết. "Khom mình một thước, đứng thẳng tám thước", Mạnh tử nói rõ việc ấy là không thể ; nay tội đã phạm là nặng, việc đã nên thì nhỏ, Yển tự biết ắt chết nhưng vẫn làm ư? Mong sao không bị kết tội chết, muốn nhờ đó mà nổi tiếng chăng?" Yển đuối lý, đành thừa nhận tội trạng.
- Thỉnh anh (请缨, xin dây tơ ): ý nói thỉnh cầu được đảm nhiệm trọng trách.
*: Nguồn gốc: Sử cũ chép, Quân tự xin: "Nguyện xin dây tơ, ắt trói Nam Việt vương mà đặt dưới cửa khuyết."
- Vô lộ thỉnh anh (无路请缨): ý nói không cơ hội ra sức vì nước.
*: Nguồn gốc: Đằng Vương các tự của Vương Bột có câu: 无路请缨, 等终军之弱冠/Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quan/Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân (Trần Trọng San dịch).
Trước tác
Ngoài Bạch lân kỳ mộc đối, sử cũ cho biết trước tác của Quân có 8 thiên văn chương , ngày nay không còn đầy đủ. Mã Quốc Hàn (马国翰) trong tác phẩm Ngọc Hàm sơn phòng tập dật thư (玉函山房辑佚书, xem tại [http://ctext.org/library.pl?if=gb&res=3116&remap=gb đây]) tìm lại được 4 thiên.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Chung Quân** (chữ Hán: 终军, ? – 112 TCN), tự Tử Vân, người quận Tế Nam , nhà văn, nhà ngoại giao, quan viên đời Tây Hán. Ông tham gia sứ đoàn đến Nam Việt,
**Nhà Hán** là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà
Nền kinh tế nhà Hán (206 TCN - 220 CN) đã trải qua các thời kỳ thịnh suy thuận theo các thăng trầm trong dòng lịch sử của Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ nhà
## Lịch sử Tây Hán ### Cao Đế khai quốc Ba tháng đầu tiên sau cái chết của Tần Thủy Hoàng tại Sa Khâu, các cuộc nổi dậy của nông dân, tù nhân, binh sĩ
Vào lúc 22:27 (Giờ Hàn Quốc) ngày 3 tháng 12 năm 2024, Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol đã tuyên bố thiết quân luật trong một bài phát biểu được truyền hình trực tiếp trên
**Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam** là mối quan hệ ngoại giao được thiết lập chính thức giữa Đại Hàn Dân Quốc và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hai quốc gia
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 481–549), tên tự là **Nguyên Lễ**, tự khác là **Đức Nhu**, người Lâm Nghi, Lang Da , quan viên, nhà thơ đời Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử
phải|nhỏ|290x290px| Tổng thống Hàn Quốc [[Moon Jae-in (trái) với Tổng thống Mỹ Joe Biden (phải) tại Nhà Trắng, tháng 5/2021. ]] **Quan hệ Hàn Quốc – Hoa Kỳ** () đề cập đến quan hệ quốc
**Bộ chỉ huy Quân sự Hàn Quốc tại Việt Nam** (Hangul: 주월한국군사령부), là cơ quan chỉ huy quân sự thống nhất đối với các đơn vị quân sự của Hàn Quốc tại miền Nam Việt
**Giải quần vợt Hàn Quốc Mở rộng 2022** (còn được biết đến với **Eugene Korea Open Tennis Championships 2022** ở giải đấu nam và **Hana Bank Korea Open 2022** ở giải đấu nữ vì lý
upright=1.2|nhỏ|Năm bước trong quá trình làm giấy, được [[Thái Luân phát minh vào năm 105, thời Đông Hán]] Triều đại nhà Hán (206 TCN - 220) thời cổ Trung Hoa, chia ra làm hai giai
**Dương Quân** - Nhà thơ trào phúng. Tên thật là **Dương Tự Cường**. Ông sinh ngày 8 tháng 8 năm 1926 (Bính Dần) tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Mất ngày
**Hán Nguyên Đế** (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy **Lưu Thích** (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị
**Triệu Trung** (chữ Hán: 趙忠; ? - 189) là hoạn quan nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc và một trong mười quan thường thị. Ông dự triều chính từ thời Hán Hoàn Đế
**Vương Quân** (chữ Hán: 王筠, 1784 – 1854), tự **Quán Sơn**, người An Khâu, Sơn Đông, học giả đời Thanh. Ông là 1 trong 4 danh gia đời Thanh chú giải Thuyết văn giải tự
**Hàn Tín** (; 230 TCN – 196 TCN), thường gọi theo tước hiệu là **Hoài Âm hầu** (淮陰候), là một danh tướng của nhà Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên với
**Park Chung-hee** (, 14 tháng 11 năm 1917 – 26 tháng 10 năm 1979) là chính trị gia, nhà lãnh đạo quân sự, cựu Tổng thống Hàn Quốc, lãnh đạo của Đảng Dân chủ Cộng
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh đã gây ra hàng loạt tội ác như giết người, hãm hiếp, đánh đập tù nhân, ném bom vào thường
**Hán Văn Đế** (chữ Hán: 漢文帝; 203 TCN – 6 tháng 7, 157 TCN), tên thật là **Lưu Hằng** (劉恆), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc,
**Hòa Hi Đặng Hoàng hậu** (chữ Hán: 和熹鄧皇后; 81 - 121), hay còn gọi **Hòa Hi Đặng thái hậu** (和熹鄧太后), **Đông Hán Đặng thái hậu** (東漢鄧太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Hòa Đế
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
**Chung Ly Muội** (; ???-201 TCN) là một viên võ tướng phục vụ dưới trướng của Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ trong lịch sử Trung Quốc. Chung Ly Muội đã cùng với Hạng Vũ
thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Trung Quốc tại thủ đô [[Seoul, Hàn Quốc]] thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Hàn Quốc tại thủ đô [[Bắc Kinh, Trung Quốc]] **Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc** là quan hệ ngoại giao
**Hán Quang Vũ Đế** (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi **Hán Thế Tổ** (漢世祖), húy **Lưu Tú** (劉秀), biểu tự **Văn Thúc** (文叔), là vị
**Hán Hòa Đế** (chữ Hán: 漢和帝; 79 – 13 tháng 2, 106), là vị Hoàng đế thứ tư của nhà Đông Hán, và là hoàng đế thứ 19 của nhà Hán trong lịch sử Trung
**Hán Cao Tổ** (chữ Hán: 漢高祖; 256 TCN – 1 tháng 6 năm 195 TCN), húy **Lưu Bang** (劉邦), biểu tự **Quý** (季), là vị hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Hán trong
**Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc** (), thường được gọi với các tên thông dụng hơn là **Lực lượng Vũ trang Hàn Quốc** hay **Quân đội Hàn Quốc** (), là lực lượng vũ trang và
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái
**Thuận Liệt Lương Hoàng hậu** (chữ Hán: 順烈梁皇后; 116 - 150), hay còn được gọi là **Đông Hán Lương Thái hậu** (東漢梁太后), là hoàng hậu của Hán Thuận Đế Lưu Bảo - vị Hoàng đế
**Hán Chiêu Đế** (chữ Hán: 汉昭帝, 95 TCN – 74 TCN), tên thật là **Lưu Phất Lăng** (劉弗陵), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc.
**Hán Linh Đế** (chữ Hán: 漢靈帝; 156 - 189), húy **Lưu Hoành** (劉宏), là vị Hoàng đế thứ 12 của thời Đông Hán, và cũng là Hoàng đế thứ 27 của triều đại nhà Hán
**Hán Vũ Đế** (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), tên thật **Lưu Triệt** (劉徹), biểu tự **Thông** (通), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán
**Chương Đức Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 章德竇皇后; ? - 14 tháng 8, 97), cũng gọi **Chương Đức Đậu Thái hậu** (章德竇太后), **Đông Hán Đậu Thái hậu** (東漢竇太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán
**Hán Minh Đế** (chữ Hán: 漢明帝; 15 tháng 6, 28 – 5 tháng 9, 75), húy **Lưu Trang** (劉莊), cũng gọi **Hán Hiển Tông** (漢顯宗), là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Đông Hán,
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
**Quán Đào công chúa** (chữ Hán: 馆陶公主, ? - 116 TCN), húy **Lưu Phiêu** (劉嫖), còn được gọi **Đậu Thái chủ** (竇太主), là một Hoàng nữ và là Công chúa nhà Hán. Bà là con
nhỏ|455x455px| Bản đồ [[Nhà Hán năm 195 TCN, bao gồm lãnh thổ do triều đình trực tiếp quản lý và lãnh thổ các phiên quốc xung quanh (Yên, Đại, Triệu, Tề, Lương, Sở, Hoài Dương,
**Trận Quan Độ** là trận đánh diễn ra trong lịch sử Trung Quốc vào năm 200 tại Quan Độ thuộc bờ nam Hoàng Hà giữa Tào Tháo và Viên Thiệu – 2 thế lực quân
**Chiến tranh Hán – Hung Nô** (漢匈戰爭 - Hán-Hung chiến tranh,漢匈百年戰爭 - Hán-Hung bách niên chiến tranh) là tên được dùng để chỉ hàng loạt các trận đánh giữa nhà Hán và các bộ lạc
**Hán thư** (Phồn thể: 漢書; giản thể: 汉书) là một tài liệu lịch sử Trung Quốc cổ đại viết về giai đoạn lịch sử thời Tây Hán từ năm 206 TCN đến năm 25. Đôi
**Hiếu Văn Đậu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文竇皇后; 205 - 135 TCN), còn gọi là **Đậu Thái hậu** (竇太后), kế thất nhưng là Hoàng hậu tại vị duy nhất của Hán Văn Đế Lưu Hằng,
**Hứa Bình Quân** (chữ Hán: 許平君; ? - 72 TCN), thụy hiệu **Cung Ai Hoàng hậu** (恭哀皇后), là nguyên phối và Hoàng hậu đầu tiên của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân, sinh mẫu của Hán
**Giả Quỳ** (chữ Hán: 贾逵, 30 – 101), tên tự là **Cảnh Bá**, người huyện Bình Lăng, quận Phù Phong , học giả, bậc đại Nho đời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. ##
**Hán Hiến Đế** (Giản thể: 汉献帝; phồn thể: 漢獻帝; 2 tháng 4 năm 181 - 21 tháng 4 năm 234), tên thật là **Lưu Hiệp** (劉協), tự là **Bá Hòa** (伯和), là vị Hoàng đế
**Hán Canh Thủy Đế** (chữ Hán: 漢更始帝; ? – 25), tên húy **Lưu Huyền** (劉玄), là Hoàng đế nhà Hán giai đoạn giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán. Ông đã tham gia khởi
**Hán Tuyên Đế** (chữ Hán: 漢宣帝; 91 TCN - 49 TCN), húy **Lưu Tuân** (劉詢), là vị Hoàng đế thứ 10 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 74
**Hán Cảnh Đế** (chữ Hán: 漢景帝; 188 TCN – 9 tháng 3, 141 TCN), tên thật là **Lưu Khải** (劉啟), là vị Hoàng đế thứ sáu của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, ở
**Hán Thuận Đế** (chữ Hán: 漢順帝; 115 - 20 tháng 9, 144), húy **Lưu Bảo** (劉保), là vị Hoàng đế thứ tám của nhà Đông Hán, và cũng là hoàng đế thứ 23 của nhà
**Linh Tư Hà hoàng hậu** (chữ Hán: 靈思何皇后, ? - 30 tháng 9 năm 189), còn gọi **Đông Hán Hà thái hậu** (東漢何太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Linh Đế Lưu Hoằng, sinh
**An Tư Diêm hoàng hậu** (chữ Hán: 安思閻皇后; ? - 19 tháng 2, 126), thường xưng **Diêm thái hậu** (閻太后), là Hoàng hậu duy nhất của Hán An Đế Lưu Hỗ, vị Hoàng đế thứ