✨Vương Hữu Phu

Vương Hữu Phu

Vương Hữu Phu (1880-1941) còn có tên là Vương Đình Thụy, húy Bảy, tự Vi Tử, sinh ngày 5 tháng12, năm Canh Thìn (1880), tại thôn Long Vân, xã Vân Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cụ sinh ra trong một gia đình, dòng họ có truyền thống khoa bảng. Cha là Vương Danh Thân, đỗ Cử nhân khoa Giáp Tý (1864), làm quan đến chức Giám sát Ngự sử. Anh ruột là Vương Đình Trân, sau đổi là Vương Đình Trác, đỗ Phó bảng khoa Ất Mùi (1895), làm quan đến chức tri phủ.

Từ nhỏ cụ đã nổi tiếng thông minh, hiếu học, lại được dùi mài kinh sử từ các thầy đồ nổi tiếng trong tỉnh, như cụ Đầu xứ Đinh Văn Uyển ở xã Kim Khê, Nghi Lộc; cụ Cử nhân Vĩnh Am - Nguyễn Thế Cát ở làng Đại Đồng, nay thuộc xã Thanh Tường, huyện Thanh Chương. Năm 23 tuổi, cụ đỗ Á nguyên (Cử nhân, thứ 2), khoa Quý Mão (1903), tại Trường thi Hương Nghệ An. Đến khoa thi Hội năm Canh Tuất (1910), cụ đỗ đầu cả thi Hội, thi Đình, tức Song nguyên (Hội nguyên và Đình nguyên). Cụ làm quan đến chức Thừa chỉ hậu bổ, Trước tác xung Cơ mật viện. Cụ còn để lại một số câu đối sáng tác treo ở nhà thờ họ Vương ở Vân Diên, Nam Đàn và ghi trong tài liệu gia đình Phó bảng Đào Phan Duân ở Bình Định (Trong sách: "Câu đối xứ Nghệ" - Nhà xuất bản. Nghệ An, 2005.- T.1).

Cụ là người chung thủy với thầy và đồng môn, đã cùng các học trò khác làm câu đối mừng thầy là Nguyễn Thế Cát được thăng chức và hiện còn được treo ở nhà thờ thầy như sau:

Hội trung tư mã nhàn kỳ thạc;

Đường thượng tam chiên tiến đại phu.

(Trong hội triều quan, thầy là bậc kỳ lão nhàn nhã; Trên đường thăng chức, mừng thầy lên bậc Đại phu).

Lại có câu:

Phượng chiếu thập hàng nhàn vân nhất phiến;

Chiên đường tam tiến thái hộ tăng quang.

(Chiếu vua mười hàng, một làn mây nhàn nhã; Đường thăng chức tước, cửa lớn càng sáng thêm).

Bài văn thi đỗ Đình nguyên được gia đình, dòng họ Vương ở Vân Diên đã tìm ra. Bản văn sách được trích từ tập: Hội Đình văn tuyển, khoa thi Canh Tuất, triều Duy Tân (Duy Tân - Canh Tuất khoa).

Đề luận do nhà vua ra. Trong chế sách có đặt vấn đề rất thực tế của xã hội nước ta lúc đó, xin trích đoạn văn quan trọng:

"… Hiện thời, trong dân gian chưa khỏi cảnh xin ăn, ở nơi đầm lớn rừng sâu còn nghe tiếng trộm cướp, phải chăng đường lối giúp dân làm giàu và giáo hóa dân còn chưa thoả đáng? Quản Tử nói: "Cơm áo đủ thì biết vinh nhục, kho lẫm đầy thì biết lễ tiết". Nay muốn bọn gian quỹ không trỗi dậy, công thương được hưng khởi lên, ở vùng ven biển và ven núi, ruộng nương được khai khẩn hết, mọi nhà đều biết, việc giáo hóa có thể thi hành rộng rãi. Suy nghĩ cho sâu làm sao sửa trị được như thế? Kẻ sĩ quân tử rộng đường khai thác cổ kim, biết sâu nghĩa vụ, hãy trình bày hết ý của mình, không phù phiếm, không giấu giếm, trẫm sẽ ban khen, tiếp thu mà thi hành vậy".

Đình nguyên Vương Hữu Phu không những vận dụng triết học phương Đông, như thuyết ngũ hành để phân tích ưu nhược điểm thể chế chính trị xã hội phong kiến đương triều, lại nhìn thẳng vào thực tế xã hội lúc bấy giờ tìm ra những mặt yếu kém, sự lạc hậu về mọi mặt, đồng thời chắt lọc sự văn minh về kinh tế, văn hoá xã hội phương Tây để lý giải và làm sáng tỏ những non kém trong phương thức sản xuất, trong điều hành lực lượng lao động xã hội và đề xuất cần phải có chính sách cải tổ, tập trung xây dựng phát triển đất nước ở những mặt đặc thù quan trọng phù hợp với đặc điểm thiên thời, địa lợi, nhân hòa nước ta lúc bấy giờ. Xin trích một số đoạn đề cập đến các vấn đề vừa nêu từ bài văn đối sách của cụ Đình nguyên:

"Nay chế sách lấy việc trong dân gian còn cảnh xin ăn, ở nơi đầm lớn rừng sâu còn nghe tiếng trộm cướp ra để hỏi, thần xin được giãi bày. Có người nói đó là do thiên tai thường xuyên xảy ra, thần cho là không phải thế. Theo thần thì mối lợi nông nghiệp nước ta chẳng những chưa được mở rộng mà phân bón còn chưa được tân chế, nghề trồng trọt chưa có phương pháp tốt, cái đạo "phú chi" hoặc giả chưa làm đến cùng, chợt gặp năm hạn hán hay úng ngập, gây mất mùa, đói kém, thì niềm vui và mối lợi chưa khắp đến xóm nghèo! Cũng có người nói ấy là do sự ngộ nhận về tự do, (thần) cũng cho không phải thế. Theo thần thì các học giả nước ta chẳng những chưa được mở mang, mà văn minh cũng chưa được đều khắp, nên tập tục lề thói còn chấp nê thủ cựu, cái đạo "Giáo chi" có chỗ chưa làm hết sức. Bọn thiếu niên thì hiểu sai tự do, không thực hiện được ý nguyện bèn cam chịu sống ngoài vòng giáo hoá. Cái đạo "Phú chi, giáo chi" như vậy là chưa được tiến hành thoả đáng, thật đúng như chế sách nói vậy! Thần trộm nghĩ cái cần kíp lúc này không có gì lớn hơn hai việc là hưng dân lợi và khai dân trí. Đức Khổng Tử khi trả lời câu hỏi của Nhiễm Hữu có nói rằng: "Sau khi làm cho dân giàu có thì phải tiến hành giáo dục họ". Tây triết nói: "Muốn làm cho dân có tri thức thì trước hết phải khơi thông sự ngu dốt của dân". Như vậy đường lối giúp dân làm giàu và giáo dục dân thường nương tựa vào nhau, việc thi hành không thể rối loạn.… Nhưng thần trộm nghĩ, làm cho dân được lợi thì không gì quan trọng hơn nghề nông; mở mang dân trí thì không gì lớn hơn việc giáo hóa. Lại không thể nói công thương không đủ để hưng lợi và mở mang trí tuệ! Thần trộm cho rằng: "Công" tất phải học máy móc, việc chế tạo do đó mới có thể phát triển, "Thương" thì hàng hoá xuất nhập khẩu phải được thông suốt, có thế việc buôn bán mới được mở mang. Thần trộm thấy về công nghệ nước ta, thì nghề thủ công chưa được khéo, việc buôn bán thì hàng hóa xuất ra nước ngoài bị cấm, cả công và thương đều chưa có thể mưu cầu lợi ích một cách nhanh chóng. Vậy, triều đình phải dần dần hướng dẫn, lợi dụng cơ hội để mở rộng ra, ngõ hầu làm cho dân chúng không chịu ở yên trong cảnh tạm bợ, được chăng hay chớ; tạo ra thói quen không chịu bó mình trong cảnh an nhàn, khiến cho công thương có cơ hưng thịnh vậy! Thần trộm thấy có điều đáng lo nữa là dân nước ta đông mà đất hoang hóa ở ven biển, ven núi chưa được khai khẩn, vẫn để nguyên như cũ. Bởi vậy, nếu quan ở địa phương bảo trợ họ, cổ vũ họ, thì không cần đợi đốc thúc gắt gao mà dân chúng sẽ nhanh chóng khai hoang vậy. Thần mong ở các địa phương mỗi nơi xây dựng một nông trường, chọn một khoảnh ruộng hoang, tuyển người siêng năng, giỏi giang quản lý công việc, cứ để cho họ đưa lưu dân về cày ruộng khẩn hoang, cung cấp nông cụ, giúp đỡ vốn liếng, đem sách kỹ thuật nông nghiệp dạy cho họ, tham khảo thêm cách cày tuyết của phương Tây, khuyến khích việc dùng cày máy và các hoạt động khác, xác định chương trình học nhằm mang lại hiệu quả. Ruộng nhà nước như thế, thì ruộng của dân sẽ bắt chước làm theo, ruộng đất may ra có thể ngày được khai khẩn thêm. Thần lại trộm thấy ở nước ta lâu nay khoản lương cho thầy, dân tùy tình hình mà cấp, người dạy học trò thì căn cứ vào đạo đức, chứ chưa dựa vào chuyên môn mà chọn, nghĩa là vẫn như trước vậy! Bộ Học nên nắm việc khảo hạch cuối cùng để chọn bằng tốt nghiệp như kiểu học có chương trình của nước Anh gồm 16 môn thi, hay của nước Đức gồm 18 khóa trình vốn có. Thần muốn bắt chước làm theo, cầu lấy thực chất, không chuộng phù hoa, đòi hỏi về chuyên môn, chứ không chỉ biết qua loa, ngõ hầu văn minh có thể ngày một tiến lên".

Qua những đoạn trích trên, chúng ta thấy cụ Đình nguyên đã có sức học không những uyên sâu về Nho học, vốn là một thế mạnh của nho sinh xứ Nghệ mà còn học được tư tưởng tiến bộ của văn minh phương Tây. Đấy là cụ đã nhìn rộng ra và thấy được sự lạc hậu của đất nước về mọi mặt, nhất là về nông - công - thương và khoa học - giáo dục. Cụ đã vạch rõ được những việc cần làm ngay để chấn hưng đất nước, như việc khẩn hoang để thêm đất cày ruộng; cho thông thương buôn bán để mở rộng thị trường ra thế giới; cho học tập, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, như lập nông trang, sử dụng cày máy để tăng năng suất cây trồng, tăng sản lượng lương thực, phát triển nghề thủ công… Đặc biệt về giáo dục, được cụ Đình nguyên rất coi trọng, cho rằng cần giảm lối học theo hủ Nho, mà tăng cường việc thực học theo lối mới có chương trình cụ thể như của nước Anh, nước Đức, có thế mới mong cải cách và đưa đất nước đến văn minh phát triển.

Là một Nho sinh thời phong kiến, phải có một bước tiến về tư tưởng mới, được tiếp xúc với các tài liệu, sách vở phương Tây thì cụ Vương Hữu Phu mới dám mạnh dạn đề xuất các ý tưởng đổi mới như trong bài văn sách thi Đình của mình như vậy. Thực tế từ triều vua Tự Đức, nước ta đã có một số nhà Nho đã có tư tưởng cách tân đất nước rất tiêu biểu như Nguyễn Trường Tộ và Phạm Công Trứ. Xứ Nghệ cũng tiêu biểu có nhiều nhà Nho đi tiên phong trong việc học chữ Tây và truyền bá chữ quốc ngữ để tiếp cận nền văn minh, KHKT tiên tiến của phương Tây như Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, v.v… nên cụ Vương Hữu Phu là một người kế tiếp được truyền thống đó và đã mạnh dạn nói ra trong bài thi Đình đỗ đầu xuất sắc của mình, tuy cụ có dè dặt, khiêm tốn trước vua, quan triều đình còn hủ lậu lúc bấy giờ, như lời văn kết bài đối sách của cụ:

"Thần là kẻ bắt đầu học, mới tiến bộ, không biết kiêng dè, nói năng bộc trực trước đấng quân vương, lòng khôn xiết run sợ!".

Theo như lời giới thiệu của GS. Vương Lộc thì tác giả bài văn đã vượt ra ngoài vòng khuôn sáo cử tử trong các bài học Nho gia truyền thống, mà tiếp cận với văn minh tiên tiến của châu Âu để biện luận sắc sảo về tình hình, chính sách, chế độ đương thời, mở ra một hướng đi mới cho triều đình phong kiến lúc bấy giờ: Bài văn sách ra đời giữa chốn trường thi, cách đây một trăm năm, xem ra đến nay vẫn còn mang đầy đủ ý nghĩa thời sự. Thông qua bài văn, tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề cổ kim đông tây, đề xuất nhiều ý kiến thiết thực, sắc sảo, có nhiều nhận xét thẳng thắn và biện luận chặt chẽ, được trình bày một cách mạch lạc, rõ ràng, có thể đánh giá là một áng văn tiêu biểu về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Rất tiếc là những ý kiến sắc sảo mang tầm chiến lược của vị Tiến sĩ tân khoa 30 tuổi nêu ra đã không được đem ra thi hành bởi lẽ lúc này mọi công việc đều do người Pháp quyết định…

(Nhà báo Nguyễn Duy Hữu viết chú thích)

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Vương Hữu Phu** (1880-1941) còn có tên là Vương Đình Thụy, húy Bảy, tự Vi Tử, sinh ngày 5 tháng12, năm Canh Thìn (1880), tại thôn Long Vân, xã Vân Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh
**Vương Hữu Quang** (, ? - 1886) tự **Dụng Hối** (用悔) hiệu **Tế Trai** (祭齋) là một quan đại thần triều Nguyễn, người Việt gốc Hoa, trải 22 năm dưới các đời vua Minh Mệnh,
**Hòa Thạc Thuần Thân vương** (chữ Hán: 和碩淳親王, ) là tước vị truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. ## Khái quát Thủy tổ của Thuần vương phủ là Dận Hựu -
**Tuyên Ý Vương hậu** (chữ Hán: 宣懿王后; Hangul: 선의왕후; 14 tháng 12, năm 1705 - 12 tháng 8, năm 1775) là kế phối và là Vương phi của Triều Tiên Cảnh Tông, vị vua đời
**Phù Nam** (chữ Hán: 夫南, , ) là tên gọi được đặt cho một quốc gia cổ theo mô hình Mandala trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện khoảng thế kỉ 1 trước Công
**Chính phủ Croatia** ( hoặc ), chính thức là **Chính phủ Cộng hòa Croatia** (), là nhánh hành pháp của chính phủ Croatia. Chính phủ được chủ tịch Chính phủ () lãnh đạo, thường được
**Chiêu Hiến Vương hậu** (chữ Hán: 昭憲王后; Hangul: 소헌왕후, 12 tháng 10, 1395 - 19 tháng 4, 1446), là Vương hậu của Triều Tiên Thế Tông, và là mẹ ruột của Triều Tiên Văn Tông
**_Vương Tử Hiên_** (, , sinh ngày 3 tháng 6 năm 1986), là nhà sản xuất, ca sĩ kiêm sáng tác nhạc, diễn viên Hồng Kông. ## Tiểu sử Vào thập niên 50, ông nội
**Trần Phú** (1 tháng 5 năm 1904 – 6 tháng 9 năm 1931) là một nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị cộng sản người Việt Nam. Ông là Tổng Bí
**Vương quốc** là một vùng lãnh thổ hay quốc gia được cai trị bởi chế độ quân chủ mà đứng đầu là một vị Quốc vương hoặc Nữ vương (còn có nhiều cách gọi khác
**Bột Hải** (, , ) là một vương quốc đa sắc tộc cổ của Triều Tiên tồn tại từ năm 698 đến 926 được lập ra bởi Đại Tộ Vinh (_Tae Choyŏng_) từ sau khi
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
Huy hiệu Chính quyền Anh (một biến thể của Huy hiệu Hoàng gia Anh) **Chính trị Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** lập nền trên thể chế quân chủ lập hiến với thủ
**Nguyễn Phúc Hồng Hưu** (chữ Hán: 阮福洪休; 2 tháng 10 năm 1835 – 9 tháng 5 năm 1885), còn có tên khác là **Thuyên** (佺). Lúc còn nhỏ, ông thông minh đĩnh ngộ, biết lĩnh
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland**, còn được biết đến với tên gọi **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland** hoặc **Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland** (), hay
**Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất** () hay gọi tắt là **CTVQ Ả Rập Thống nhất** hay **UAE** (theo tên tiếng Anh là _United Arab Emirates_) là quốc gia Tây Á nằm về
**Phiên vương quốc** (Hán-Việt: 藩王國, tiếng Anh: Princely state), gọi tắt **phiên quốc**, hoặc **thổ bang**, là một quốc gia chư hầu nằm dưới quyền cai trị của các hoàng tộc bản địa Ấn Độ,
**Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland** hoặc **Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Ireland** () là quốc gia được thành lập ngày 1 tháng 1 năm 1801 khi Vương quốc Đại Anh và
**Tùng Thiện vương** (chữ Hán: 從善王, 11 tháng 12 năm 1819 – 30 tháng 4 năm 1870), biểu tự **Trọng Uyên** (仲淵), lại có tự khác là **Thận Minh** (慎明), hiệu **Thương Sơn** (倉山), biệt
**Vương Mãng** (chữ Hán: 王莽; 12 tháng 12, 45 TCN - 6 tháng 10, năm 23), biểu tự **Cự Quân** (巨君), là một quyền thần nhà Hán, người về sau trở thành vị Hoàng đế
**Lang Gia Vương thị** (琅琊王氏), là thế tộc họ Vương tại quận Lang Gia (琅邪郡). Lang Gia Vương thị hưng khởi lúc thời Hán, thời Đông Tấn phát triển thành gia tộc cao nhất trong
**Chế độ quân chủ Vương quốc Liên hiệp**, thường được gọi chế độ **quân chủ Anh**, là chế độ quân chủ lập hiến của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Lãnh thổ
liên_kết=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/59/112407-Harrods-DiannaDodiMemorial1.jpg/170px-112407-Harrods-DiannaDodiMemorial1.jpg|nhỏ|_[[Innocent Victims|Tượng Những Nạn nhân Vô tội_, một trong hai đài tưởng niệm trước đây được trưng bày ở Harrods]] Sau năm 1998, người ta cho rằng cái chết của Diana, Vương phi xứ Wales
**Vương tộc Valois** ( , also , ) là một nhánh phụ của triều đại Capet. Vương tộc này kế vị Vương tộc Capet (hay "Nhánh chính Capet") lên ngai vàng Pháp, và là hoàng
thumb|Tranh vẽ Viện Quý Tộc ngày xưa. Viện này bị cháy năm 1834. **Viện Quý tộc** (tiếng Anh: _House of Lords_) là thượng viện của Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.
**Nhà Orange-Nassau** (tiếng Hà Lan: _Huis van Oranje-Nassau_, ), là vương tộc đang trị vì Vương quốc Hà Lan hiện nay. Nó vốn là một chi nhánh của Nhà Nassau, gia tộc sở hữu một
**Vương Chí** (chữ Hán: 王志, 460 – 513), tự Thứ Đạo, người Lâm Nghi, Lang Da, quan viên, nhà thư pháp phục vụ các chánh quyền Lưu Tống, Nam Tề, Lương thời Nam Bắc triều
nhỏ|Hào Cách - thủy tổ của Túc vương phủ **Hòa Thạc Túc Thân vương** (chữ Hán: 和碩肅親王; ) là tước vị Thân vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.
**Vương Trấn Ác** (chữ Hán: 王镇恶, 11 tháng 6, 373 – 7 tháng 3, 418), người huyện Kịch, quận Bắc Hải, tướng lĩnh cuối đời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. ## Thiếu thời
**Vương Hi Chi** (chữ Hán: 王羲之; 303 – 361), tự **Dật Thiếu** (逸少), hiệu **Đạm Trai** (澹斋), là nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Về sau tham bái
**Hiếu Cảnh Vương hoàng hậu** (chữ Hán: 孝景王皇后; 178 - 126 TCN), thường gọi **Hiếu Cảnh Thái hậu** (孝景太后), là Hoàng hậu thứ hai của Hán Cảnh Đế Lưu Khải. Bà là sinh mẫu của
thumb|[[Dịch Hân - Vị Cung Thân vương đầu tiên là Thiết mạo tử vương.]] **Hòa Thạc Cung Thân vương** (, ) là một tước vị Thân vương truyền đời của nhà Thanh trong lịch sử
**Nhà Liechtenstein** (tiếng Đức: _Haus Liechtenstein_) là gia tộc hoàng gia cai trị Thân vương quốc Liechtenstein, theo luật định, chỉ có những thành viên gia tộc này mới đủ điều kiện thừa kế ngai
thumb|[[Vương quốc Macedonia (màu cam đậm) vào năm 336 TCN dưới triều đại của Philippos II của Macedonia; những vùng lãnh thổ khác bao gồm các quốc gia lệ thuộc của Macedonia (cam nhạt), người
**Macedonia** (; ), còn được gọi là **Macedon** (), là một vương quốc cổ đại nằm ở ngoài rìa phía bắc của nền văn minh Hy Lạp Cổ xưa và Hy Lạp Cổ điển, và
**Vương quốc La Mã**, còn được gọi là **chế độ quân chủ La Mã**, hoặc là **Thời kỳ vương quyền của La Mã cổ đại**, là kỷ nguyên mở đầu của lịch sử La Mã,
**Danh sách người giàu Việt Nam theo giá trị tài sản** dựa trên sự đánh giá tài sản và công bố thường niên của tạp chí Forbes (đối với các tỷ phú đô la) và
**Tài sản sở hữu** hay **sản nghiệp** trong bản trích yếu là những gì thuộc về hoặc với một cái gì đó dù là một thuộc tính hoặc là một thành phần của điều được
**Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Cát Lâm** được bầu cử bởi Đại hội Đại biểu nhân dân tỉnh Cát Lâm, lãnh đạo bởi thành viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cán bộ,
**Triều đại Tudor** hoặc **Nhà Tudor** là một Vương thất châu Âu có nguồn gốc từ xứ Wales. Từ năm 1485 đến 1603, Nhà Tudor cai trị Vương quốc Anh và các lãnh thổ, trong
**Doãn Hựu** (, chữ Hán: 允祐; 19 tháng 8 năm 1680 – 18 tháng 5 năm 1730) là hoàng tử thứ 7 tính trong số những người con sống tới tuổi trưởng thành của Thanh
**Chính phủ Quốc vương Bệ hạ** (/HMG) thường được gọi là **Chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh**, là chính phủ trung ương của Vương quốc Liên hiệp Đại Anh và Bắc Ireland. Lãnh đạo
**Tòa án Tối cao Vương quốc Anh** (, viết tắt là **UKSC**) là cơ quan xét xử cao nhất tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, có thẩm quyền giải quyết những vụ
nhỏ|[[Nột Lặc Hách - đại tông Thuận Thừa Quận vương đời thứ 15]] **Đa La Thuận Thừa Quận vương** (chữ Hán: 多羅顺承郡王) là tước vị Quận vương thế tập truyền đời của nhà Thanh trong
**Phú Thọ** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Phú Thọ có diện tích là 9.361 km² (xếp thứ 15); dân số
**Quốc hội Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là cơ quan lập pháp tối cao của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và các lãnh thổ hải ngoại thuộc Anh. Quốc
**Diana Spencer, Thân vương phi xứ Wales** (Diana Frances Spencer; 1 tháng 7 năm 1961 – 31 tháng 8 năm 1997), báo chí Việt Nam thường gọi là **Công nương** thay vì là **Vương phi**,
**Vương Chính Quân** (chữ Hán: 王政君; 71 TCN - 3 tháng 2, 13), cũng được gọi **Nguyên hậu** (元后), **Hán Nguyên hậu** (漢元后), **Hiếu Nguyên hậu** (孝元后), **Tân thất Văn mẫu** (新室文母), **Hiếu Nguyên Vương
thumb|phải|[[Sophia Dorothea của Đại Anh|Princess Sophia Dorothea, con gái duy nhất của George I của Anh, là _British princess_ đầu tiên.]] **Vương nữ Anh, Vương nữ Liên hiệp Anh, Công chúa Anh**, **Công nương Anh**
**Nguyễn Phú Trọng**, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, từ trần vào hồi 13 giờ 38 phút, ngày 19 tháng 7 năm