✨Vụ chìm tàu Hải Thành 26

Vụ chìm tàu Hải Thành 26

Tàu Hải Thành 26-BLC là một tàu vận tải biển, có trọng tải trên 3 nghìn tấn, thuộc Công ty tránh nhiệm hữu hạn thương mại vận tải biển Phương Thịnh. Vào khoảng 23h55 phút ngày 27 tháng 3 năm 2017, tàu Hải Thành 26 chở clinker từ Hải Phòng đi Cần Thơ, khi đến vùng biển cách Vũng Tàu 44 hải lý về phía Đông đã va chạm với tàu Petrolimex 14 khiến tàu chìm. Thuyền trưởng và một thuyền viên được cứu sống, 9 người mất tích.

Tai nạn

Lúc 00 giờ 15 ngày 28 tháng 3 năm 2017, tại tọa độ 10021'N-107049'E, cách Đông Nam La Gi (Bình Thuận) khoảng 9 hải lý và cách Đông Đông Bắc Mũi Nghinh Phong (Vũng Tàu, Bà Rịa – Vũng Tàu) khoảng 44 hải lý, tàu Petrolimex 14 đâm vào tàu Hải Thành 26, sau khi đâm va tàu Petrolimex 14 quay lại tìm kiếm và phát hiện 1 phao bè trên có 2 thuyền viên của tàu vận tải Hải Thành 26, còn 9 thuyền viên vẫn mất tích. Đến 6 giờ 45 ngày 28 tháng 3, Văn phòng Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn nhận được thông tin từ Trung tâm Phối hợp Tìm kiếm cứu nạn Hàng hải Việt Nam về tai nạn này và ngay sau đó đã phát thông báo hàng hải, thông báo cho các phương tiện hoạt động gần khu vực phương tiện bị nạn có biện pháp hỗ trợ tìm kiếm, cứu nạn sau đó điều 2 tàu tìm kiếm cứu nạn là SAR-413 và SAR-272 đi cứu nạn khẩn cấp. Văn phòng Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn thông báo cho các đơn vị gần khu vực xảy ra tai nạn hỗ trợ tìm kiếm, cứu nạn.

Chiều 30 tháng 3, tìm thấy thi thể đại phó tàu Hải Thành 26 Lương Văn Quỳnh đang trôi dạt trên biển gần khu vực tàu chìm. Lực lượng cứu nạn đã mở rộng phạm vi tìm kiếm hơn 300 hải lý vuông, gồm các tàu Cảnh sát biển Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Bộ đội Biên phòng Việt Nam, Trung tâm Phối hợp tìm kiếm Cứu nạn Hàng hải khu vực III cùng nhiều tàu cá ngư dân. Tàu Visal 08 cùng đội thợ lặn gồm 8 người đã đến hiện trường phối hợp với các lực lượng để xác định vị trí xác tàu chìm, tổ chức lặn tiếp cận.

8 giờ 54 ngày 31 tháng 3, tàu SAR-413 đã vớt thêm 1 thuyền viên tàu Hải Thành 26, tại vị trí: 10019'300N-107043'950E (cách vị trí xác tàu khoảng 3.2 hải lý về phía Tây Tây Nam). Thi thể là thợ máy là Ninh Văn Quỳnh, sinh năm 1989, quê quán Hải Dương. Đến 13 giờ 30, tàu SAR-272 báo lực lượng thợ lặn đã phát hiện thêm thi thể của thủy thủ Mai Văn Dương, sinh năm 1994, quê quán Thanh Hóa bên trong xác tàu Hải Thành 26, tại Phòng số 2, mạn phải tàu. Lúc 15 giờ 30, thợ lặn đã phát hiện thêm 2 thi thể bên trong xác tàu. Xác nhận hai thi thể trên là Vũ Thế Kiên, sinh năm 1980, sĩ quan máy và thi thể thứ hai là Nguyễn Trường Đại, sinh năm 1982, thủy thủ.

Đến sáng 1 tháng 4, Ba thuyền viên cuối cùng được lực lượng cứu hộ tìm thấy bị kẹt trong tàu Hải Thành 26-BLC, nhận dạng sơ bộ là Nguyễn Viết Duy (thủy thủ), Lê Văn Ba (thợ máy) và Nguyễn Trường Đại (thủy thủ). 10 giờ, tàu SAR-413 (chỉ huy hiện trường) tuyên bố kết thúc công tác tìm kiếm cứu nạn và yêu cầu các lực lượng phương tiện tham gia tìm kiếm cứu nạn tại hiện trường quay về căn cứ.

Điều tra tai nạn

Cục Hàng hải Việt Nam đã có văn bản giao Cảng vụ hàng hải Vũng Tàu chủ trì thu thập chứng cứ, điều tra nguyên nhân của vụ việc. Tàu Petrolimex 14 buộc phải neo tại Vũng Tàu nhằm phục vụ công tác điều tra.

Tàu Petrolimex 14 không ứng cứu ngay tàu Hải Thành 26, mà chỉ làm việc này khi được Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn Hàng hải Việt Nam (MRCC) điều động đi cứu hộ. Theo đó, khoảng 4h37 phút ngày 28.3, cơ quan này nhận được tín hiệu báo nạn từ phao EPIRB của tàu Hải Thành 26 tại vị trí 10,18 độ vĩ Bắc - 107,45 độ kinh Đông, trên vùng biển cách Vũng Tàu khoảng 44 hải lý về phía đông. Ngay sau đó, MRCC đã điều động tàu Pettrolimex 14 đang hoạt động cách đó khoảng 4,5 hải lý đến ngay vị trí báo nạn.

Tại cuộc họp báo tại Bộ Giao thông vận tải (GTVT) chiều 5/4, ông Nguyễn Xuân Sang - Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam - cho biết: "Kết quả điều tra sơ bộ cho thấy không có dấu hiệu tàu Petrolimex 14 bỏ chạy, vì với tốc độ trung bình 10,2 hải lý/h thì từ lúc va chạm tới lúc nhận báo nạn, tàu Petrolimex sẽ phải chạy được khoảng 40-50 hải lý, chứ không phải 4,5 hải lý".

Hỗ trợ tài chính

Để chia sẻ mất mát với gia đình người nhà nạn nhân, Công ty cổ phần xăng dầu Vitaco hỗ trợ mỗi gia đình có người thân bị mất là 100 triệu đồng, người bị thương là 50 triệu đồng".

Danh sách thuyền viên

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tàu Hải Thành 26-BLC** là một tàu vận tải biển, có trọng tải trên 3 nghìn tấn, thuộc Công ty tránh nhiệm hữu hạn thương mại vận tải biển Phương Thịnh. Vào khoảng 23h55 phút
**Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn Hàng hải Việt Nam** (, viết tắt **Vietnam MRCC** hay **VMRCC**) là cơ quan trực thuộc Cục Hàng hải Việt Nam của Bộ Giao thông Vận tải,
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-124_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 52_** và mang tên **_I-24_** từ năm 1927 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_Akagi_** (tiếng Nhật: 赤城; Hán-Việt: _Xích Thành_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, được đặt tên theo núi Akagi thuộc
nhỏ|phải|[[HMS Hood (51)|HMS _Hood_, tàu chiến-tuần dương lớn nhất từng được chế tạo, lớn hơn mọi thiết giáp hạm Anh Quốc cho đến khi chiếc HMS _Vanguard_ đưa ra hoạt động vào năm 1946. Nó
**Hải chiến ngoài khơi Samar** hay **Trận Samar** là trận đánh mang tính quan trọng trong thời gian diễn ra cuộc Hải chiến vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất trong lịch
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_I-26_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
nhỏ|phải|Một tấm ảnh khác về tàu khu trục _Uranami_ **_Uranami_** (tiếng Nhật: 浦波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn
**T****àu ma** là một chiếc tàu không có thủy thủ đoàn sống trên đó, nó có thể là một tàu bị ma ám trong văn hóa dân gian hay viễn tưởng hư cấu, như tàu
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
nhỏ|250x250px|Hàng không mẫu hạm lớn nhất thế giới. Nhân viên điều hành trên tháp quan sát của chiếc [[USS Ronald Reagan của Hoa Kỳ.|thế=]] **Tàu sân bay** (tiếng Anh: _aircraft carrier_), hay **hàng không mẫu
**USS _Northampton_ (CL/CA-26)** là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**Tàu ngầm Type IXA** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào các năm 1935-1936 như những tàu ngầm đại dương hoạt động tầm xa. Khái niệm
**_Natori_** (tiếng Nhật: 名取) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Kinu trong tỉnh Tochigi của Nhật Bản.
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Admiral**_ là một lớp bao gồm bốn tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được thiết kế vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất sắp kết thúc.
**_U-34_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã can
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Takao_ bao gồm bốn chiếc, được thiết kế cải tiến dựa trên lớp _Myōkō_ trước đó. _Maya_ đã hoạt
**_Jintsū_** (tiếng Nhật: 神通) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Sendai_. Tên của nó được đặt theo sông Jinzu tại tỉnh Gifu và Toyama ở
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_U-124_** (tên lóng "Edelweissboot") là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940,
**_Victor Hugo_** là chiếc cuối cùng cho lớp tàu tuần dương bọc thép _Léon Gambetta_ được Hải quân Pháp chế tạo trong giai đoạn đầu thế kỷ 20. Tàu được hạ thủy vào tháng 3
**_U-202_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
Đây là một **Niên biểu các sự kiện diễn ra trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai**, trong năm 1939. ## Tháng 9 năm 1939 thumb|Các quốc gia Đồng Minh và phe Trục
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
**_U-552_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_U-46_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-404_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-201_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_I-58_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đang khi chế tạo, nó được cải biến
**_U-454_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**USS _Dempsey_ (DE-26)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _Evarts_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải
nhỏ|300x300px| nhỏ|upright|Tàu khu trục , một chiếc thuộc của [[Hải quân Hoa Kỳ.]] **Tàu khu trục**, hay còn gọi là **khu trục hạm**, (tiếng Anh: _destroyer_) là một tàu chiến chạy nhanh và cơ động,