✨U-454 (tàu ngầm Đức)

U-454 (tàu ngầm Đức)

U-454 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được mười chuyến tuần tra, đánh chìm được một tàu buôn tải trọng và một tàu chiến tải trọng 1.870 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng . Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-454 bị một thủy phi cơ Short Sunderland của Không quân Hoàng gia Australia đánh chìm trong vịnh Biscay vào ngày 1 tháng 8, 1943.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Garbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-454 được đặt hàng vào ngày 20 tháng 10, 1939, Tại đây lúc 06 giờ 32 phút ngày 17 tháng 1, 1942, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu đánh cá vũ trang Liên Xô RT-68 Enise (557 tấn) ở vị trí khoảng về phía Bắc Kanin Nos, tại tọa độ .

Cùng ngày hôm đó, lúc 18 giờ 46 phút, chiếc U-boat đã tấn công Đoàn tàu PQ-8, gây hư hại cho chiếc tàu buôn Anh Harmatis và đến 22 giờ 21 phút đã đánh chìm tàu khu trục Anh (1.870 tấn) tại tọa độ . Chỉ có hai người trong tổng số 238 thành viên thủy thủ đoàn của Matabele sống sót, phần lớn đã thiệt mạng do mìn sâu mang theo kích nổ dưới nước hay bị hạ thân nhiệt. U-454 kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Kirkenes vào ngày 20 tháng 1, 1942.

1942

Chuyến tuần tra thứ hai và thứ ba

U-454 khởi hành từ Kirkenes vào ngày 27 tháng 1 cho chuyến tuần tra thứ hai, và đã tiếp tục hoạt động trong biển Barents, cho đến khi đi đến cảng Trondheim, Na Uy vào ngày 3 tháng 2.

Chuyến tuần tra thứ ba, xuất phát từ Trondheim vào ngày 24 tháng 2 và kết thúc tại Kirkenes vào ngày 15 tháng 3, vẫn được tiến hành trong biển Barent.

Chuyến tuần tra thứ tư và thứ năm

U-454 thực hiện thêm hai chuyến tuần tra, cùng xuất phát và kết thúc tại Kirkenes, để hoạt động trong biển Barents ngoài khơi bán đảo Kola và chung quanh đảo Bear. Chúng diễn ra từ ngày 24 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4, và từ ngày 8 tháng 4 đến ngày 20 tháng 4. Sau đó vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5, chiếc tàu ngầm lên đường đi Bergen, Na Uy và sau đó đến Kiel, Đức nơi nó đượ sửa chữa và đại tu.

Chuyến tuần tra thứ bảy

U-454 khởi hành từ căn cứ mới St. Nazaire vào ngày 26 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ bảy, kéo dài cho đến ngày 7 tháng 12 để hoạt động tại khu vực Trung tâm Bắc Đại Tây Dương. Nó vẫn không đánh chìm được mục tiêu nào, và kết thúc chuyến tuần tra tại St. Nazaire sau 73 ngày hoạt động trên biển, trở thành chuyến tuần tra dài ngày nhất của chiếc U-boat.

1943

Chuyến tuần tra thứ tám

Chuyến tuần tra tiếp theo kéo dài từ ngày 18 tháng 1 đến ngày 8 tháng 3, 1943, cùng bắt đầu và kết thúc tại St. Nazaire, khi U-454 hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Tây Ireland và phía Bắc quần đảo Azores.

Chuyến tuần tra thứ chín

U-454 xuất phát từ St. Nazaire vào ngày 17 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ chín để tiếp tục hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương. Tại đây vào ngày 10 tháng 5, nó bị một máy bay ném bom-ngư lôi Fairey Swordfish xuất phát từ tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoàng gia Anh tấn công, buộc chiếc tàu ngầm phải lặn xuống ẩn nấp, nhưng không bị hư hại. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến cảng La Pallice ở La Rochelle, cùng bên bờ Đại Tây Dương của Pháp, vào ngày 23 tháng 5.

Chuyến tuần tra thứ mười – Bị mất

U-454 xuất phát từ cảng La Pallice vào ngày 26 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ mười, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong Đại Tây Dương. Trong vịnh Biscay vào ngày 1 tháng 8, nó bị một thủy phi cơ Short Sunderland thuộc Liên đội 10 Không quân Hoàng gia Australia đánh chìm thả mìn sâu ở vị trí về phía Tây Bắc mũi Ortegal, Tây Ban Nha, tại tọa độ . 32 thành viên thủy thủ đoàn của U-454 đã tử trận, và có 14 người sống sót được cứu vớt. Chiếc Sunderland cũng bị hỏa lực phòng không của chiếc tàu ngầm bắn rơi, khiến sáu thành viên đội bay tử trận, và sáu người sống sót được cứu vớt.

"Bầy sói" tham gia

U-454 từng tham gia mười chín bầy sói:

  • Ulan (25 tháng 12, 1941 – 18 tháng 1, 1942)
  • Aufnahme (7 – 10 tháng 3, 1942)
  • Umhang (10 – 15 tháng 3, 1942)
  • Eiswolf (28 – 31 tháng 3, 1942)
  • Robbenschlag (8 – 14 tháng 4, 1942)
  • Blutrausch (15 – 19 tháng 4, 1942)
  • Wolf (13 – 30 tháng 7, 1942)
  • Pirat (30 tháng 7 – 3 tháng 8, 1942)
  • Steinbrinck (3 – 11 tháng 8, 1942)
  • Panther (6 – 20 tháng 10, 1942)
  • Veilchen (20 tháng 10 – 7 tháng 11, 1942)
  • Kreuzotter (9 – 18 tháng 11, 1942)
  • Landsknecht (20 – 28 tháng 1, 1943)
  • Pfeil (1 – 9 tháng 2, 1943)
  • Ritter (16 – 23 tháng 2, 1943)
  • Amsel (26 tháng 4 – 3 tháng 5, 1943)
  • Amsel 4 (3 – 6 tháng 5, 1943)
  • Rhein (7 – 10 tháng 5, 1943)
  • Elbe 2 (10 – 14 tháng 5, 1943)

Tóm tắt chiến công

U-454 đã đánh chìm được một tàu buôn tải trọng và một tàu chiến tải trọng 1.870 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng :

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-454_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**USS _Ellyson_ (DD-454/DMS-19)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, cải biến thành
**Lớp tàu khu trục Tribal**, còn được gọi là **lớp _Afridi**_, là một lớp tàu khu trục được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh, Canada và Australia ngay trước Chiến tranh Thế giới
**HMS _Matabele_ (L26/F26)** là một tàu khu trục lớp Tribal được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên của nó là một từ Anh hóa
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
**Captain America** () là một siêu anh hùng hư cấu xuất hiện trong truyện tranh của Hoa Kỳ được xuất bản bởi Marvel Comics. Được tạo bởi họa sĩ truyện tranh Joe Simon và Jack
**Mikoyan-Gurevich MiG-17** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-17; Tên ký hiệu của NATO: **Fresco**) là một máy bay tiêm kích phản lực cận âm sản xuất bởi Liên Xô, được đưa vào sử dụng từ