U-202 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được tổng cộng chín chuyến tuần tra, đánh chìm được chín tàu buôn tổng tải trọng đồng thời gây hư hại cho bốn tàu buôn khác tổng tải trọng . Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại Bắc Đại Tây Dương, U-202 bị đánh chìm bởi mìn sâu và hỏa lực hải pháo từ các tàu chiến Anh về phía Đông Nam Greenland vào ngày 2 tháng 6, 1943.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC
Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.
Chế tạo
U-202 được đặt hàng vào ngày 23 tháng 9, 1939, Brest trở thành căn cứ hoạt động của chiếc tàu ngầm trong suốt tám chuyến tuần tra tiếp theo. Vào ngày 27 tháng 8, nó đã phóng ngư lôi đánh chìm tàu đánh cá vũ trang Anh Ladylove lúc 14 giờ 35 phút ở vị trí khoảng về phía Nam Iceland Thụy Điển, tại tọa độ . Đến ngày 11 tháng 9, nó kết liễu Scania thuộc Đoàn tàu SC 42 bằng hai quả ngư lôi lúc 13 giờ 47 phút, sau khi chiếc tàu buôn Thụy Điển bị bỏ lại sau khi trúng ngư lôi từ tàu ngầm U-82 lúc 07 giờ 05 phút. Scania đắm ở vị trí về phía Đông mũi Farewell Greenland, tại tọa độ . U-202 kết thúc chuyến tuần tra và về đến Brest vào ngày 17 tháng 9. Tại đây vào ngày 3 tháng 11, nó đã tấn công Đoàn tàu SC 22 và đánh chìm các tàu buôn Anh và Gretavale về phía Đông Bắc vịnh Notre Dame, Newfoundland, tại tọa độ . U-202 quay trở về căn cứ Brest vào ngày 13 tháng 11.
1942
Chuyến tuần tra thứ năm
U-202 khởi hành từ Brest vào ngày 1 tháng 3, 1942 cho chuyến tuần tra thứ năm, và băng qua suốt Đại Tây Dương để hoạt động ngoài khơi vùng bờ Đông Hoa Kỳ. Ở vị trí khoảng về phía Đông Nam Halifax, Nova Scotia vào ngày 22 tháng 3, nó đã phóng ngư lôi tấn công con Anh Athelviscount , vốn bị phân tán khỏi Đoàn tàu ON 75 do thời tiết xấu; chiếc tàu chở dầu chỉ bị hư hại và được kéo về cảng. Đến ngày 1 tháng 4, ở vị trí khoảng về phía Đông Bắc Bermuda, chiếc tàu ngầm lại đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Loch Don lúc 23 giờ 14 phút tại tọa độ . U-202 kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 26 tháng 4. Mười ngày sau đó, 22 tháng 6, chiếc tàu ngầm đã đánh chìm tàu buôn Argentina ở vị trí khoảng ngoài khơi New York, tại tọa độ . Đến ngày 1 tháng 7, nó lại đánh chìm tàu chở hành khách Hoa Kỳ City of Birmingham ở vị trí khoảng về phía Đông mũi Hatteras, North Carolina, tại tọa độ .
Chuyến tuần tra thứ bảy
U-202 chuyển đến hoạt động tại vùng biển giữa Trung và Nam Mỹ trong chuyến tuần tra thứ bảy bắt đầu từ ngày 6 tháng 9. Ngay khi còn đang di chuyển trong vịnh Biscay, nó bị một máy bay ném bom Vickers Wellington với đội bay người Séc thuộc Liên đội 311 Không quân Hoàng gia Anh tấn công, và bị hư hại nhẹ. U-202 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Brest vào ngày 25 tháng 10. Nó đã tấn công Đoàn tàu UC 1 vào ngày 23 tháng 2 lúc 22 giờ 17 phút ở vị trí về phía Nam quần đảo Azores, và loạt bốn quả ngư lôi phóng ra đã gây hư hại cho chiếc tàu chở dầu Hà Lan Murena , cùng các tàu chở dầu Anh British Fortitude và Empire Norseman . Sau đó quả ngư lôi phóng từ ống phóng đuôi lúc 22 giờ 21 phút đã trúng đích và đánh chìm tàu chở dầu Hoa Kỳ Esso Baton Rouge ở vị trí khoảng về phía Nam quần đảo Azores, tại tọa độ . U-202 kết thúc chuyến tuần tra vào ngày 26 tháng 3.
Chuyến tuần tra thứ chín - Bị mất
U-202 xuất phát từ Brest vào ngày 29 tháng 4, 1943 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, hướng sang khu vực Bắc Đại Tây Dương ngoài khơi Canada. Khi chiếc tàu ngầm gửi một báo cáo vô tuyến về căn cứ lúc 09 giờ 30 phút ngày 1 tháng 6, vị trí của nó đã bị các tàu chiến Hải quân Hoàng gia Anh trang bị máy định vị cao tần (HF/DF: High-frequency direction finding) phát hiện. Sáu tàu chiến thuộc Đội Hộ tống 2, do Đại tá Hải quân Frederick J. Walker chỉ huy trên tàu sà lúp , bắt đầu truy tìm chiếc tàu ngầm, và dò được tín hiệu sonar của mục tiêu nên bắt đầu tấn công bằng mìn sâu. U-202 cố gắng lặn sâu và cơ động né tránh cũng như thả mồi bẫy để tìm cách thoát khỏi những kẻ truy đuổi, nhưng không thành công.
Các tàu chiến Anh áp dụng chiến thuật buộc tàu ngầm đối phương phải di chuyển ngầm liên tục để làm cạn kiệt ắc-quy. U-202 cuối cùng buộc phải trồi lên mặt nước lúc sau nữa đêm, lập tức phải chịu đựng hỏa lực hải pháo từ các tàu đối phương. Starling dự định húc để đánh chìm U-202, nhưng nhận ra đối thủ đã bị hư hại nặng nên chuyển hướng vào phút cuối để chạy song song và tiếp tục nả pháo. U-202 đắm 40 phút sau khi trồi lên mặt nước, ở vị trí về phía Đông Nam Greenland, tại tọa độ ; 18 thành viên thủy thủ đoàn của U-202 đã tử trận, và 30 người sống sót bị bắt làm tù binh chiến tranh.
"Bầy sói" tham gia
U-202 từng tham gia mười bầy sói:
- Grönland (17 – 27 tháng 8, 1941)
- Markgraf (27 tháng 8 – 11 tháng 9, 1941)
- Schlagetot (20 tháng 10 – 1 tháng 11, 1941)
- Raubritter (1 – 5 tháng 11, 1941)
- Delphin (20 tháng 1 – 9 tháng 2, 1943)
- Rochen (9 – 28 tháng 2, 1943)
- Tümmler (1 – 19 tháng 3, 1943)
- Không tên (5 – 10 tháng 5, 1943)
- Lech (10 – 15 tháng 5, 1943)
- Donau 2 (15 – 26 tháng 5, 1943)
Tóm tắt chiến công
U-202 đã đánh chìm được chín tàu buôn tổng tải trọng đồng thời gây hư hại cho bốn tàu buôn khác tổng tải trọng :
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-202_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-382_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-238_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-558_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-108_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-203_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-375_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó dành toàn
**_U-270_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-305_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-332_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-338_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-381_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-620_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ thực
**U-222** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, _U-202_ vẫn đang
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**USS _McCook_ (DD-252)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó được chuyển
**Chiến dịch Pedestal** (, **Trận chiến giữa tháng Tám**), được người dân Malta gọi là **** (, **Đoàn vận tải Santa Maria**), là một chiến dịch tiếp vận đảo Malta của Hải quân Hoàng gia
**HMS _Opportune_ (G80)** là một tàu khu trục lớp O được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào năm 1939 do Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Sống sót qua cuộc
**HMCS _Skeena_ (D59/I59)** là một tàu khu trục thuộc lớp _River_ của Hải quân Hoàng gia Canada đã phục vụ từ năm 1931 đến năm 1944. Nó tương tự như những chiếc tàu khu trục
**HMS _Anthony_ (H40)** là một tàu khu trục lớp A của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi cuộc xung đột kết
**Mặt trận Baltic** là một trong ba mục tiêu tấn công đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã trong Chiến dịch Barbarossa. Trong tuần lễ đầu tiên của cuộc Chiến tranh Xô-Đức, tại đây
**Junkers Ju 88** là một loại máy bay được sản xuất bởi Tập đoàn Junkers và xuất xưởng lần đầu tiên vào giữa năm 1930. Junkers Ju 88 được Luftwaffe sử dụng trong Thế chiến
**USS _Rowan_ (DD-405)** là một tàu khu trục lớp _Benham_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được
nhỏ|Một [[neutron được bắn vào một hạt nhân urani-235, biến nó thành một hạt nhân urani-236 với năng lượng kích thích được cung cấp bởi động năng của neutron cộng với các lực liên kết
**Viên Thiệu** (chữ Hán: 袁紹; 154 - 28 tháng 6 năm 202), tên tự là **Bản Sơ** (本初), là một tướng lĩnh nhà Đông Hán và lãnh chúa quân phiệt vào đầu thời Tam Quốc
**Viên** (phiên âm theo tên tiếng Pháp: _Vienne_) hay **Wien** (tên gốc tiếng Đức, ; tiếng Bavaria: _Wean_) là thủ đô liên bang của Cộng hòa Áo, đồng thời là thành phố lớn nhất, và
**Thái Bình** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Theo cuộc Tổng điều tra dân
**Chiến dịch mùa Xuân năm 1975**, hay **Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam**, là những cuộc tấn công quân sự cuối cùng của Quân Giải phóng
Lavochkin **S-75 Dvina** (tiếng Nga: С-75 Двина; tên ký hiệu của NATO: **SA-2 _Guideline**_) là một tổ hợp tên lửa đất đối không (SAM) tầm cao được điều khiển bằng hệ thống ra đa ba
**Tuyến 3: Trôi – Nhổn – Ga Hà Nội – Hoàng Mai** là tuyến đường sắt đô thị đang được xây dựng và là một phần của hệ thống mạng lưới Đường sắt đô thị
**Linz** (; ; ) là thành phố thủ phủ của Thượng Áo và là thành phố lớn thứ ba ở Áo. Nó nằm ở phía bắc đất nước Áo, trên sông Danube cách biên giới
**Vĩnh Phúc** là một tỉnh cũ thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam, nằm ở chính giữa trung tâm hình học trên bản đồ miền Bắc. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
**Tam Quốc** (giai đoạn 220–280, theo nghĩa rộng từ 184/190/208–280) là một thời kỳ phân liệt trong lịch sử Trung Quốc khi ba quốc gia Tào Ngụy, Thục Hán, và Đông Ngô cùng tồn tại,
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
**Đồng Tháp** là một tỉnh mới thành lập thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Vùng đất Đồng Tháp đã được Chúa Nguyễn khai phá vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII. Tỉnh Đồng
**Trường Sa** (tiếng Hoa giản thể: 长沙; tiếng Hoa phồn thể: 長沙; pinyin: _Chángshā_; Wade-Giles: _Chang-sha_) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Hồ Nam, thuộc vùng Nam Trung Bộ
**_The Hurt Locker_** (tựa tiếng Việt: **_Chiến dịch sói sa mạc_**) là một bộ phim giật gân chiến tranh năm 2008 của Mỹ, do Kathryn Bigelow đạo diễn và Mark Boal biên kịch. Phim có