U-46 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực hiện được tổng cộng mười ba chuyến tuần tra, đánh chìm được hai mươi tàu buôn tải trọng , hai tàu chiến phụ trợ tải trọng , đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn cùng gây hư hại cho hai chiếc khác. U-46 được rút về vai trò huấn luyện từ tháng 10, rồi xuất biên chế vào tháng 10, 1943.
Vào cuối cuộc xung đột, chiếc tàu ngầm bị đánh đắm trong vịnh Kupfermühlen vào ngày 5 tháng 5, 1945, nhằm tránh bị lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Phân lớp VIIB của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIA được mở rộng. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Brown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIB bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.
Chế tạo
U-46 được đặt hàng vào ngày 21 tháng 11, 1936,
Chuyến tuần tra thứ hai và thứ ba
Tiếp tục hoạt động từ căn cứ Kiel trong các chuyến tuần tra tiếp theo, U-46 đã đánh chìm tàu buôn Anh City of Mandalay vào ngày 17 tháng 10 trong chuyến thứ hai từ ngày 3 tháng 10 đến ngày 7 tháng 11, và đánh chìm tàu buôn Na Uy Rudolph vào ngày 21 tháng 12 trong chuyến thứ ba từ ngày 19 tháng 12, 1939 đến ngày 10 tháng 1, 1940.
1940
Chuyến tuần tra thứ tư và thứ năm
Chuyến tuần tra thứ tư của U-46 diễn ra trong hai ngày 29 tháng 2 và 1 tháng 3, về thực chất chiếc tàu ngầm chỉ chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel đến Wilhelmshaven.
Đại úy Sohler đã chỉ huy U-46 trong suốt năm chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, nhưng thành tích khiêm tốn đạt được khiến ông phải bàn giao vai trò hạm trưởng cho Đại úy Hải quân Engelbert Endrass vào ngày 22 tháng 5. Endrass từng đảm nhiệm vị trí hạm phó của chiếc U-47 dưới quyền Đại úy Günther Prien, khi chiếc U-boat này xâm nhập Scapa Flow và đánh chìm thiết giáp hạm . U-46 là tàu ngầm đầu tiên Endrass chỉ huy.
Chuyến tuần tra thứ sáu
U-46 xuất phát từ Kiel vào ngày 1 tháng 6 và băng qua Bắc Hải để tiến vào Đại Tây Dương.
U-46 chuyển căn cứ đến Bergen, Na Uy vào đầu tháng 8. Đến ngày 27 tháng 8, nó đánh chìm tàu buôn tuần dương vũ trang , rồi tiếp nối là chiếc SS Ville de Hasselt vào ngày 31 tháng 8 và SS Thornlea vào ngày 2 tháng 9. , một tàu buôn mang cờ Ireland trung lập, bị đánh chìm bằng hải pháo vào ngày 4 tháng 9.
Các hạm trưởng đã tường thuật lại chi tiết khác nhau về cuộc tấn công này. Đại úy Endrass cho rằng hạm trưởng Eric Jones và thủy thủ đoàn của Luimneach đã mất tinh thần sau phát đạn bắn cảnh cáo của U-46 ngang trước mũi tàu. Trong khi đó Jones là một hạm trưởng dày kinh nghiệm và Luimneach từng trải qua 12 đợt không kích trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Thủy thủ đoàn của Luimneach đã bỏ tàu và Endrass sau đó đã đánh chìm mục tiêu bằng hải pháo, vì U-46 đã sử dụng hết số ngư lôi mang theo. Trong cuộc điều tra vào ngày 4 tháng 3, 1941, Đô đốc Karl Dönitz kết luận chiếc U-boat đã ứng xử phù hợp với quy tắc giao chiến khi đánh chìm một con tàu đã bị bỏ lại. U-46 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Lorient tại bờ biển Đại Tây Dương của nước Pháp bị chiếm đóng vào ngày 6 tháng 9.
Chuyến tuần tra thứ chín
Lên đường vào ngày 13 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ chín, Đến ngày 25 tháng 10, chiếc tàu ngầm bị ba máy bay Lockheed Hudson thuộc Liên đội 233 Không quân Hoàng gia Anh tấn công, khiến một thủy thủ bị tử thương. U-46 kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày 29 tháng 10. Trong chuyến tuần tra cuối cùng từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 26 tháng 8 xuất phát từ Saint Nazaire, U-46 không bắt gặp mục tiêu nào đáng kể. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại Kiel.
1942 - 1945
Sau chuyến tuần tra cuối cùng vào ngày 24 tháng 9, 1941, U-46 được điều về Chi hạm đội U-boat 26 để phục vụ như một tàu huấn luyện. Nó được điều sang Chi hạm đội U-boat 24 vào tháng 4, 1942, rồi được cho xuất biên chế tại Neustadtvào tháng 10, 1943. Vào giai đoạn kết thúc Thế Chiến II, theo dự định của kế hoạch Regenbogen, U-46 bị đánh đắm tại vịnh Kupfermühlen, tại tọa độ , vào ngày 5 tháng 5, 1945, để tránh lọt vào tay lực lượng Đồng Minh.
"Bầy sói" tham gia
U-46 từng tham gia hai bầy sói
- Rösing (12 – 15 tháng 6, 1940)
- West (19 tháng 5 – 6 tháng 6, 1941)
Tóm tắt chiến công
U-46 đã đánh chìm được hai mươi tàu buôn với tổng tải trọng , hai tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng , đồng thời gây tổn thất toàn bộ cho một tàu buôn cùng gây hư hại cho hai chiếc khác:
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-46_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-37_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-39_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó chỉ kịp
**_U-47_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_U-40_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó chỉ kịp
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-46_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1915, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1918,
**_U-103_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-124_** (tên lóng "Edelweissboot") là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940,
**_U-109_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-107_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-106_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-105_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-108_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_U-110_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó chỉ kịp
**_U-69_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-98_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-84_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-104_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó chỉ thực
**Tàu ngầm Type IXA** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào các năm 1935-1936 như những tàu ngầm đại dương hoạt động tầm xa. Khái niệm
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**Lớp tàu sân bay _Graf Zeppelin**_ là hai tàu sân bay của Hải quân Đức được đặt lườn vào giữa những năm 1930 như một phần của Kế hoạch Z nhằm tái vũ trang. Bốn
**_Graf Zeppelin_** là tàu sân bay duy nhất của Đức được hạ thủy trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, tiêu biểu phần nào cho những nỗ lực của Hải quân Đức để tạo ra
nhỏ|Tàu corvette [[động cơ hơi nước|hơi nước Pháp _Dupleix_ (1856–1887)]] **Corvette** (nguồn gốc từ tiếng Pháp: _corvair_; tiếng Việt còn có thể dịch là **tàu hộ tống nhỏ**, **tàu hộ vệ** hay **hộ vệ hạm**
**HMS _Trinidad_ (46)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ lớp Crown Colony của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc; được đặt tên theo đảo Trinidad, vốn vẫn còn là một thuộc địa của Đế
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
Chiếc **Consolidated B-24 Liberator** **(Người giải phóng)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ Hoa Kỳ do hãng Consolidated Aircraft chế tạo. Nó được sản xuất với số lượng nhiều hơn
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
**USS _Alden_ (DD-211)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế
**Hải quân Liên Xô** () là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là **Hạm đội Đỏ**, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến
**_Roma_** là một thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Được đặt theo tên của thành phố Roma, đây là thiết giáp hạm thứ ba của lớp _Littorio_ và là một
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**Enver Hoxha** ( _En-ve Hô-gia_ 16 tháng 10 năm 1908 - 11 tháng 4 năm 1985) là nhà lãnh đạo của Albania từ năm 1944 cho đến khi qua đời vào năm 1985, với vai
**Spetsnaz** (; là viết tắt cho _Войска **спец**иа́льного **наз**наче́ния_; tr. _Voyska **spets** ialnovo **naz** nacheniya_; [ ; "Đơn vị quân sự có nhiệm vụ đặc biệt"]) là một thuật ngữ chung chỉ nhiệm vụ đặc
**Linz** (; ; ) là thành phố thủ phủ của Thượng Áo và là thành phố lớn thứ ba ở Áo. Nó nằm ở phía bắc đất nước Áo, trên sông Danube cách biên giới
**USS _Arkansas_ (BB-33)** là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ, là chiếc thứ hai trong lớp _Wyoming_ vốn bao gồm hai chiếc. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân
**Kinh tế Vương quốc /Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** là một nền kinh tế thị trường xã hội và định hướng thị trường phát triển cao. được cấu thành bởi 4 nền kinh tế
Cảnh quan từ núi Bà Nà Cảnh quan từ khách sạn Morin **Bà Nà** là khu bảo tồn thiên nhiên đồng thời cũng là quần thể du lịch nghỉ dưỡng toạ lạc tại khu vực
**Bạc Liêu** là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tỉnh Bạc
**Trường Sa** (tiếng Hoa giản thể: 长沙; tiếng Hoa phồn thể: 長沙; pinyin: _Chángshā_; Wade-Giles: _Chang-sha_) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Hồ Nam, thuộc vùng Nam Trung Bộ
**Qatar** (phát âm: “Ca-ta”, , chuyển tự: _Qaṭar_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Qatar** (, chuyển tự: _Dawlat Qaṭar_) là quốc gia có chủ quyền tại châu Á, thuộc khu vực Tây Nam