✨U-69 (tàu ngầm Đức) (1940)

U-69 (tàu ngầm Đức) (1940)

U-69 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực hiện được tổng cộng mười chuyến tuần tra, đánh chìm được trên tàu bè Đồng Minh trong khoảng thời gian hai năm, trở thành một trong những tàu U-boat phục vụ liên tục dài nhất. Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-69 bị tàu khu trục Anh húc và đánh chìm tại Bắc Đại Tây Dương vào ngày 17 tháng 2, 1943.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-69 được đặt hàng vào ngày 30 tháng 5, 1938, Đến ngày 22 tháng 2, nó hai lần bị thủy phi cơ Short Sunderland tấn công bằng mìn sâu nhưng không bị hư hại. Trước đó U-69 đã đánh chìm Empire Blanda thuộc Đoàn tàu HX 107 vào ngày 19 tháng 2, và sau đó là chiếc Marslew thuộc Đoàn tàu OB 288 vào ngày 23 tháng 2. Sang ngày 24 tháng 2, một trong số các tàu hộ tống cho Đoàn tàu OB 288 đã truy đuổi U-69 trong suốt ba giờ với 22 quả mìn sâu được thả xuống, nhưng nó thoát được mà không bị hư hại. Sang ngày 30 tháng 3, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Anh Coultarn thuộc Đoàn tàu OB 302 về phía Tây Nam Iceland, rồi bốn ngày sau đó lại phóng ngư lôi gây hư hại cho tàu buôn Anh Thirlby thuộc Đoàn tàu SC 26. Trên đường quay trở về, U-69 bị hư hại bởi một quả bom ném nhầm từ một máy bay Đức vào ngày 10 tháng 4 trước khi về đến Lorient vào ngày 11 tháng 4. Chiếc tàu ngầm đã lần lượt rải thủy lôi ngoài khơi Takoradi, Ghana và Lagos vào các ngày 27 và 29 tháng 3 tương ứng. Trong chặng quay trở về căn cứ, vào ngày 3 tháng 7, nó đụng độ và đấu pháo tay đôi với tàu buôn vũ trang Anh Robert L. Holt ở vị trí về phía Tây Nam quần đảo Canary, tiêu phí mất 136 quả đạn pháo nổ mạnh và đạn cháy cùng hỏa lực cỡ nhỏ để có thể đánh chìm đối thủ tại tọa độ . U-69 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng St. Nazaire cùng trên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp vào ngày 8 tháng 7. U-69 kết thúc chuyến tuần tra tại St. Nazaire vào ngày 25 tháng 6. rồi đến ngày 14 tháng 10 tiếp tục đánh chìm chiếc tàu phà trong eo biển Cabot lúc 03 giờ 21 phút. Tổng cộng đã có 137 người, bao gồm 57 binh lính, 31 thủy thủ tàu buôn và 49 thường dân, thiệt mạng do vụ đắm tàu, hầu hết do mắc kẹt bên trong tàu hay đuối nước.

Tranh luận nảy sinh chung quanh hoạt động của tàu quét mìn , vốn tháp tùng để hộ tống cho Caribou. Thay vì dừng lại cứu vớt những người sống sót, Grandmère đã đuổi theo để tìm cách húc chiếc tàu ngầm, rồi thả sáu quả mìn sâu săn đuổi U-69 trong suốt gần hai giờ, trước khi quay lại cứu vớt những người sống sót của Caribou; trong thời gian này một số người sống sót trôi nổi trên biển đã bị chết cóng. Theo giải thích của Hải quân Hoàng gia Canada, Grandmère đã tuân theo quy trình hoạt động được đặt ra trong tình huống này là phải truy đuổi theo tàu ngầm đối phương; nếu nó dừng lại, nó gặp nguy cơ tiếp tục bị U-69 đánh chìm. Sự kiện Caribou bị đánh chìm đã đánh động dư luận vùng bờ Đông Bắc Mỹ, vì hoạt động của tàu ngầm U-boat Đức đã gây tổn thất cho thường dân ngay tại vùng bờ biển nhà. U-69 kết thúc chuyến tuần tra tại cảng Lorient, Pháp.

1943

Chuyến tuần tra thứ mười - Bị mất

U-69 rời cảng Lorient, Pháp vào ngày 2 tháng 1, 1943 cho chuyến tuần tra thứ mười, cũng là chuyến cuối cùng, và hoạt động trong thành phần bầy sói Haudegen từ ngày 19 tháng 1. Ở vị trí giữa Đại Tây Dương, nó tham gia tấn công Đoàn tàu ONS 165 vào ngày 17 tháng 2, nhưng bị các tàu hộ tống phát hiện qua hệ thống định vị cao tần (HF/DF: High Frequency Direction Finding) và radar. Chịu đựng các đợt tấn công bằng mìn sâu, U-69 buộc phải trồi lên mặt nước, và bị tàu khu trục Anh húc chìm giữa Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Newfoundland, tại tọa độ . Toàn bộ 46 thành viên thủy thủ đoàn đều tử trận.

"Bầy sói" tham gia

U-69 từng tham gia bảy bầy sói:

  • Seewolf (4 – 15 tháng 9, 1941)
  • Brandenburg (15 – 24 tháng 9, 1941)
  • Störtebecker (5 – 19 tháng 11, 1941)
  • Gödecke (19 – 25 tháng 11, 1941)
  • Letzte Ritter (25 tháng 11 – 3 tháng 12, 1941)
  • Falke (8 – 19 tháng 1, 1943)
  • Haudegen (19 tháng 1 – 15 tháng 2, 1943)

Tóm tắt chiến công

U-69 đã đánh chìm được 17 tàu buôn có tổng tải trọng , gây tổn thất toàn bộ cho một chiếc , đồng thời gây hư hại cho một chiếc khác :

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-69_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-96_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-126_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-71_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-69_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1915, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh chìm năm
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
thumb|Tàu sân bay hộ tống của [[Hải quân Hoàng gia Anh]] **Tàu sân bay hộ tống** (ký hiệu lườn **CVE**, tên tiếng Anh: escort carrier hoặc escort aircraft carrier) là một kiểu tàu sân bay
phải|Depth charge **Mark IX** sử dụng bởi [[Hải quân Hoa Kỳ vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai. Không giống như các loại Depth charge có hình trụ và trông giống như thùng phi
**HMS _Blencathra_ (L24)** là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu II của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1940. Nó đã hoạt
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
**Chiến dịch _Weserübung**_ () là mật danh của cuộc tấn công do Đức Quốc xã tiến hành tại Đan Mạch và Na Uy trong Chiến tranh thế giới thứ hai, mở màn Chiến dịch Na
**Chiến dịch Na Uy** là tên gọi mà phe Đồng Minh Anh và Pháp đặt cho cuộc đối đầu trực tiếp trên bộ đầu tiên giữa họ và quân đội Đức Quốc xã trong chiến
**USS _Thatcher_ (DD–162)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada và
Phi cơ [[B-17 Flying Fortress đang bay trên bầu trời châu Âu]] Các giới chức quân sự quan trọng của Mỹ tại châu Âu năm 1945 **Lịch sử quân sự Hoa Kỳ trong Chiến tranh
**HMS _Fame_ (H78)** là một tàu khu trục lớp F được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó chủ yếu hoạt
**Ernest Miller Hemingway** (21 tháng 7 năm 1899 – 2 tháng 7 năm 1961) là một tiểu thuyết gia người Mỹ, nhà văn viết truyện ngắn và là một nhà báo. Ông là một phần
**HMS _Archer_ (D78)** là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp _ Long Island_ được chế tạo tại Hoa Kỳ trong những năm 1939–1940 và được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trong Chiến
**Trận tấn công Trân Châu Cảng** (hay **Chiến dịch Hawaii** và **Chiến dịch AI** của Hawaii, và **Chiến dịch Z** theo cách gọi của Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản) là một cuộc
**Convair B-36 "Peacemaker"** là một kiểu máy bay ném bom chiến lược được chế tạo bởi hãng Convair cho Không quân Hoa Kỳ. B-36 là máy bay gắn động cơ piston lớn nhất từng được
"**Little Boy**" ("cậu bé") là mật danh của quả bom nguyên tử được ném xuống thành phố Hiroshima (Nhật Bản) vào ngày 6 tháng 8 năm 1945 trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là