✨U-105 (tàu ngầm Đức) (1940)
U-105 là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực hiện tổng cộng chín chuyến tuần tra, đánh chìm tổng cộng 22 tàu buôn với tổng tải trọng và một tàu chiến tải trọng 1.546 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương, U-105 bị chiếc thủy phi cơ Potez-CAMS 141 thuộc lực lượng Pháp Tự do thả mìn sâu đánh chìm ngoài khơi bờ biển Dakar, Sénégal vào ngày 2 tháng 6, 1943.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Thiết kế của tàu ngầm Type IXB là phiên bản nâng cấp nhỏ từ Type IXA, tăng thêm trữ lượng nhiên liệu để kéo dài tầm xa hoạt động. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi . Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không SK C/30 và hai pháo phòng không C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.
Chế tạo
U-105 được đặt hàng vào ngày 24 tháng 5, 1938, Vào ngày 9 tháng 1, 1941, nó phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn Anh Bassano ở vị trí về phía Tây Bắc Rockall. Vào ngày 26 tháng 1, nó phóng ngư lôi kết liễu chiếc tàu buôn Anh Lurigethan , vốn bị phân tán khỏi Đoàn tàu SL 61 và đã bị hư hại trước đó do không kích. U-105 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Lorient bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 31 tháng 1. Nó cùng với tàu ngầm U-124 được lệnh đánh chặn Đoàn tàu SL-67, và U-105 đã đánh chìm tàu buôn Harmodius vào ngày 8 tháng 3; hai chiếc U-boat đã đánh chìm tổng cộng tàu bè.
Sau đó U-105 chuyển sang tấn công Đoàn tàu SL-68, đánh chìm các tàu buôn Medjerda vào ngày 18 tháng 3, Mandalika vào ngày 19 tháng 3, và Clan Ogilvy , Benwyvis cùng Jhelum , tất cả cùng vào ngày 21 tháng 3.
U-105 thực hiện chiến công đầu tiên của Hải quân Đức Quốc Xã ngoài khơi bờ biển Nam Mỹ khi nó đánh chìm tàu buôn Anh Ena de Larrinaga vào ngày 5 tháng 4. Sau đó nó tấn công Đoàn tàu OG-59 và đánh chìm Oakdene vào ngày 6 tháng 5, Benvrackie trong thành phần Đoàn tàu OB-312 vào ngày 13 tháng 5, Benvenue trong thành phần Đoàn tàu OB-314 vào ngày 15 tháng 5, Rodney Star vào ngày hôm sau, và Scottish Monarch trong thành phần Đoàn tàu OB-319 vào ngày 1 tháng 6. Đây là một trong những chuyến tuần tra thành công nhất của một tàu ngầm U-boat trong Thế Chiến II, khi 12 tàu bè có tổng tải trọng bị đánh chìm.
Trong chuyến đi vào ngày 5 tháng 5, U-105 gặp tai nạn khi khẩu hải pháo 105 mm trên boong tàu phát nổ, khiến sáu người bị thương. Chiếc U-boat quay trở về Lorient vào ngày 13 tháng 6. Nó lần lượt hoạt động trong thành phần các bầy sói Hammer từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 8, rồi cùng bầy sói Grönland từ ngày 12 đến ngày 27 tháng 8. Sau đó trong thành phần bầy sói Margrave, nó đánh chìm tàu buôn Panama Montana trong thành phần Đoàn tàu SC 42 vào ngày 11 tháng 9. Chiếc U-boat quay trở về Lorient vào ngày 20 tháng 9. Nó tham gi cùng bầy sói Steuben từ ngày 14 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào, và quay trở về Lorient vào ngày 13 tháng 12. Vào ngày 31 tháng 1, nó đã đánh chìm chiếc tàu sà lúp Anh (1.546 tấn), vốn đang hộ tống cho Đoàn tàu SL 98 ở vùng biển về phía Tây Nam Ireland. Đến ngày 5 tháng 2, chiếc U-boat đã cứu vớt bảy thành viên đội bay một máy bay ném bom Dornier Do 24 bị rơi ở vị trí ngoài khơi bờ biển nước Pháp. Trong vòng ba ngày từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 3, nó đánh chìm các tàu chở dầu Anh Narragansett tại tọa độ và tàu Na Uy Svenør tại tọa độ Nó quay trở về Lorient vào ngày 15 tháng 4, sau 50 ngày hoạt động trên biển. trong khi còn đang băng qua vùng biển vịnh Biscay vào ngày 12 tháng 6, U-105 bị một thủy phi cơ Short Sunderland thuộc Liên đội 10 Không quân Hoàng gia Australia tấn công, và bị hư hại nghiêm trọng đến mức nó phải đi đến cảng Ferrol, Tây Ban Nha (trung lập) để ẩn náu cho đến ngày 28 tháng 6, và quay trở lại Lorient vào ngày 30 tháng 6.
1943
Chuyến tuần tra thứ tám
U-105 chỉ khởi hành từ Lorient cho chuyến tuần tra tiếp theo vào ngày 23 tháng 11, 1942. Tại khu vực về phía Đông Bắc lục địa Nam Mỹ, nó lần lượt đánh chìm các tàu buôn Anh Orfor vào ngày 14 tháng 12, tàu buồm C. S. Flight vào ngày 12 tháng 1, 1943, tàu chở dầu British Vigilance , trong thành phần Đoàn tàu TM 1, vào ngày 24 tháng 1, và tàu chở hàng Hoa Kỳ Cape Decision vào ngày 27 tháng 1. U-105 quay trở về Lorient vào ngày 14 tháng 2. Trên đường đi vào ngày 1 tháng 4, hạm trưởng của U-105, Trung úy Jürgen Nissen, được thăng lên hàm Đại úy Hải quân. Đến ngày 15 tháng 5 U-105 đánh chìm tàu buôn Hy Lạp Maroussio Logothetis ở vị trí về phía Tây Nam Freetown.
Vào ngày 2 tháng 6, ở vị trí ngoài khơi Dakar, Sénégal, U-105 bị chiếc thủy phi cơ Potez-CAMS 141 thuộc lực lượng Pháp Tự do thả mìn sâu đánh chìm tại tọa độ . Toàn bộ 53 thành viên thủy thủ đoàn của U-105 đều tử trận.
"Bầy sói" tham gia
U-105 từng tham gia bốn bầy sói:
- Hammer (5 - 12 tháng 8, 1941)
- Grönland (12 - 27 tháng 8, 1941)
- Markgraf (27 tháng 8 - 11 tháng 9, 1941)
- Steuben (14 tháng 11 - 2 tháng 12, 1941)
Tóm tắt chiến công
U-105 đã đánh chìm được tổng cộng 22 tàu buôn với tổng tải trọng và một tàu chiến tải trọng 1.546 tấn: