✨U-65 (tàu ngầm Đức) (1939)

U-65 (tàu ngầm Đức) (1939)

U-65 là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực hiện được sáu chuyến tuần tra, đánh chìm mười hai tàu buôn với tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho ba tàu buôn với tổng tải trọng . Trong chuyến tuần tra cuối cùng, U-65 bị tàu khu trục Hải quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm trong Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Iceland vào ngày 28 tháng 4, 1941.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

Thiết kế của tàu ngầm Type IXB là phiên bản nâng cấp nhỏ từ Type IXA, tăng thêm trữ lượng nhiên liệu để kéo dài tầm xa hoạt động. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi . Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không SK C/30 và hai pháo phòng không C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.

Chế tạo

U-65 được đặt hàng vào ngày 16 tháng 7, 1937, Vào ngày 13 tháng 4, chiếc tàu ngầm đã tấn công một nhóm tàu khu trục ở vị trí về phía Bắc Bergen, Na Uy, nhưng các quả ngư lôi đã không kích nổ. Tàu khu trục đối phương đã phản công, gây một số hư hại nhẹ cho U-65, nhưng nó thoát được cuộc tấn công, Lúc 08 giờ 17 phút ngày 21 tháng 6, nó tấn công mục tiêu đầu tiên là chiếc tàu buôn Hà Lan Berenice , vốn xuất phát từ cảng Bordeaux chở theo 1.000 tấn quặng mangan cùng 22 hành khách. Một quả ngư lôi trúng ngay giữa tàu đã khiến Berenice đắm trong vòng ba phút, và chỉ có chín trong tổng số 47 người có mặt trên tàu sống sót khi được một tàu tuần duyên cứu vớt.

Sang ngày hôm sau, chiếc tàu ngầm lại tấn công và đánh chìm một tàu chở dầu không được hộ tống trong vịnh Biscay lúc 18 giờ 04 phút. Nạn nhân của U-65 được cho là chiếc tàu chở dầu Pháp Monique , cho dù không có người nào sống sót để có thể xác nhận lai lịch con tàu.

Vào giữa trưa ngày 30 tháng 6, U-65 phát hiện và tấn công Đoàn tàu SL-36, tự nhận đã đánh trúng hai chiếc thuộc đoàn tàu vận tải này. Trong thực tế chỉ có chiếc Clan Ogilvy bị đánh trúng, bị hư hại nhưng không chịu thương vong. Chiếc tàu buôn Anh được tàu khu trục và tàu corvette hộ tống đi đến cảng Falmouth an toàn vào ngày 4 tháng 7.

Một ngày sau đó, 1 tháng 7, U-65 tiếp tục tấn công Đoàn tàu OA-175. Lúc 13 giờ 51 phút nó phóng quả ngư lôi cuối cùng còn lại, và tự nhận đã đánh chìm được mục tiêu ở vị trí khoảng về phía Tây Nam mũi Finisterre (Tây Bắc Tây Ban Nha). Một lần nữa mục tiêu của U-65, chiếc tàu buôn Hà Lan Amstelland đã không chìm sau khi trúng ngư lôi bên mạn phải, khiến một thủy thủ văng xuống nước tử vong. Amstelland tiếp tục nổi được với khoang chở hàng số 5 bị ngập nước, cho đến khi được chiếc tàu kéo trợ giúp. Tàu corvette đã hộ tống cho cả hai về đến Falmouth an toàn vào ngày 5 tháng 7. Tiêu phí hết số ngư lôi mang theo, U-65 rút lui về căn cứ, về đến Wilhelmshaven vào ngày 7 tháng 7.

Trong chuyến đi này U-65 đồng thời cũng đảm trách vận chuyển Seán Russell, Tham mưu trưởng Quân đội Cộng hòa Ireland (IRA), và Frank Ryan, một thành viên IRA từng tham gia phe Cộng Hòa trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, bị lực lượng phe Quốc dân của tướng Francisco Franco bắt giữ và chuyển giao cho Đức. Theo dự định của Chiến dịch Dove (tiếng Đức: "Unternehmen Taube"), Russell cùng Ryan sẽ được cho đổ bộ lên Ireland để hoạt động phá hoại. Tuy nhiên trong chuyến đi, Russell mắc bệnh và than phiền bị đau ở vùng dạ dày, nhưng U-65 không có bác sĩ cùng trang bị y tế, nên ông từ trần vào ngày 14 tháng 8, khi còn cách Galway, Ireland . Russell được mai táng trên biển và Chiến dịch Dove bị hủy bỏ. Khi chiếc tàu ngầm quay trở về Đức, một cuộc điều tra về cái chết của Russell được tiến hành, bao gồm việc thẩm vấn Frank Ryan cùng thủy thủ của U-65. Kết luận cuối cùng là Seán Russell mắc bệnh viêm loét dạ dày tá tràng và qua đời do không được chữa trị kịp thời.

Chuyến tuần tra thứ tư

U-65 xuất phát từ cảng Lorient vào ngày 21 tháng 8 để bắt đầu chuyến tuần tra thứ tư, và sau khi ghé đến cảng Brest trong sáu ngày, đã bắt đầu hoạt động tại khu vực Trung tâm Bắc Đại Tây Dương. Mãi đến 20 giờ 00 ngày 14 tháng 9, chiếc tàu ngầm mới bắt gặp Đoàn tàu HX-70 ở vị trí khoảng ngoài khơi Barra Head, Scotland. Đến 21 giờ 18 phút, U-65 phóng một quả ngư lôi tấn công chiếc tàu buôn Na Uy MV Hird nhưng không trúng mục tiêu. Chiếc tàu buôn bắt đầu chạy zig-zag hết tốc độ để lẫn tránh, và chiếc U-boat phải mất chín giờ trước khi đón đầu được mục tiêu. Một quả ngư lôi phóng ra từ ống phóng đuôi lúc 06 giờ 05 phút ngày hôm sau đã đánh trúng mạn phải Hird, khiến chiếc tàu buôn bị nghiêng và thủy thủ bắt đầu bỏ tàu. Hird đắm lúc 20 giờ 30 phút; những người sống sót được chiếc tàu đánh cá Iceland Þórólfur cứu vớt và đưa đến Anh vào ngày 17 tháng 9.

Một đợt tấn công khác diễn ra thành công vào ngày 17 tháng 9, khi U-65 phóng ngư lôi nhắm vào chiếc tàu buôn Anh Treganna trong thành phần Đoàn tàu HX-71. Một quả ngư lôi trúng đích đã nhanh chóng đánh chìm mục tiêu ở vị trí khoảng về phía Tây Bắc Rockall. Chỉ có bốn người trong tổng số 37 thành viên thủy thủ đoàn sống sót, khi họ được chiếc tàu buôn Anh Filleigh thuộc cùng đoàn tàu vận tải cứu vớt và đưa đến Avonmouth. Chiếc tàu ngầm tiếp tục ở ngoài biển thêm 12 ngày mà không bắt gặp mục tiêu nào khác, nên quay trở về căn cứ Lorient vào ngày 25 tháng 9.

Chuyến tuần tra thứ năm

Xuất phát từ Lorient vào ngày 15 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ năm, U-65 chuyển sang hoạt động dọc theo bờ biển Tây Phi và Nam Đại Tây Dương; đây trở thành chuyến tuần tra dài ngày nhất và thành công nhất của U-65. Phải mất một tháng trước khi chiếc tàu ngầm tìm thấy mục tiêu đầu tiên, tàu buôn Anh Kohinur , vốn vừa tách ra khỏi Đoàn tàu OB-235, vào ngày 15 tháng 11. Đến 15 giờ 11 phút, U-65 tấn công và đánh chìm mục tiêu ở vị trí khoảng phía Bắc đường Xích đạo. Thoạt tiên có 68 trong tổng số 85 người trên tàu sống sót, nhưng nhiều người trong số họ đã thiệt mạng chỉ vài giờ sau đó, khi U-65 đánh chìm mục tiêu thứ hai là chiếc tàu chở dầu Na Uy Havbør .

Thủy thủ Anh trên một chiếc bè cứu sinh của Kohinur đã cảnh báo cho Havbør về sự hiện diện của tàu ngầm đối phương trong khu vực, nhưng con tàu Na Uy vẫn thả xuồng xuống nước để trợ giúp cứu vớt được 31 người sống sót. Ngay lúc đó Havbør bị một quả ngư lôi phóng từ U-65 đánh trúng bên mạn trái và lập tức bốc cháy; dầu lan trên mặt nước bắt lửa vây hãm nhiều xuồng tham gia vào hoạt động cứu vớt, khiến 28 thành viên thủy thủ đoàn của Havbør cùng toàn bộ 31 người của Kohinur thiệt mạng trong biển lửa. Chiếc tàu chở dầu đắm bảy giờ sau đó; trong số năm người sống sót, một người qua đời do vết thương trước khi được giải cứu vào ngày 24 tháng 11, bốn người còn lại được đưa đến Freetown, Sierra Leone.

Đến ngày 16 tháng 11, U-65 phát hiện và tấn công chiếc tàu buôn Anh Fabian ở vị trí khoảng về phía Tây Freetown. Một quả ngư lôi duy nhất đánh trúng phần mũi con tàu lúc 14 giờ 29 phút, và sau đó chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước để kết liễu mục tiêu bằng hải pháo. Sau khi năm trong số tám phát đạn pháo trúng đích, Fabian đắm với tổn thất sáu thành viên thủy thủ đoàn. 33 người sống sót được thẩm vấn, cung cấp thực phẩm đồng thời trợ giúp y tế cho hai người bị thương trước khi chiếc U-boat rời đi.

Lúc 18 giờ 02 phút ngày 18 tháng 11, U-65 phát hiện tàu chở dầu Anh Congonian di chuyển mà không được hộ tống. Quả ngư lôi thứ nhất đã đánh trúng phòng động cơ của Congonian, được tiếp nối bằng quả ngư lôi thứ hai phóng lúc 18 giờ 12 phút đánh trúng gần đuôi tàu đã kết liễu mục tiêu. Một thủy thủ đã thiệt mạng, nhưng 35 thành viên còn lại được tàu tuần dương hạng nặng cứu vớt và đưa đến Freetown vài ngày sau đó. U-65 trở thành tàu ngầm U-Boat đầu tiên băng qua đường Xích đạo vào ngày 11 tháng 12, 1940.

Phải mất gần một tháng trước khi U-65 đánh chìm được mục tiêu tiếp theo. Lúc 16 giờ 05 phút ngày 21 tháng 12, tàu chở dầu trung lập mang cờ Panama Charles Pratt bị một quả ngư lôi đánh trúng giữa tàu. Stockhausen nhìn thấy rõ ràng lá cờ trung lập được sơn bên mạn tàu, nhưng ông vẫn quyết định tấn công mà không cảnh cáo trước vì con tàu đang đi đến một cảng đối phương. Trong khi thủy thủ đoàn đang rời tàu trên hai xuồng cứu sinh bên mạn trái, một quả ngư lôi thứ hai lại đánh trúng mạn phải chiếc tàu chở dầu phía giữa tàu khoảng 20 phút sau đó. Charles Pratt bị ngập nước nặng, lật nghiêng và đắm sau đó. Những người sống sót được các tàu buôn Anh GasconyLangleegorse cứu vớt vài ngày sau đó và đưa đến Freetown.

Đến ngày 24 tháng 12, U-65 bắt gặp tàu chở dầu Anh , vốn bị tách khỏi Đoàn tàu SLS-60. Hai quả ngư lôi trúng đích lúc 16 giờ 41 phút đã đánh chìm mục tiêu ở vị trí khoảng về phía Tây Nam Freetown. 31 thủy thủcùng một pháo thủ đã thiệt mạng khi tàu đắm. Trong số 13 người sống sót, chín người được tàu tuần dương hạng nặng cứu vớt vào ngày 3 tháng 1, 1941 và đưa đến Freetown. Bốn người còn lại trôi dạt trên biển trong suốt 41 ngày (25 ngày không có thức ăn) trước khi được tàu khu trục cứu vớt.

Ba ngày sau đó, U-65 trông thấy tàu buôn Thụy Điển Risanger di chuyển mà không được hộ tống. Một quả ngư lôi duy nhất đánh trúng lúc 11 giờ 31 phút đã đánh trúng giữa tàu, sau đó chiếc U-boat trồi lên mặt nước và nả 70 phát đạn pháo nhằm kết liễu chiếc tàu buôn. Risanger đắm trong khi chân vịt của nó vẫn còn quay; toàn bộ 29 người trên tàu được chiếc tàu chở dầu Na Uy Belinda cứu vớt vài ngày sau đó và đưa đến Cape Town, Nam Phi vào ngày 10 tháng 1, 1941.

Vào ngày 31 tháng 12, ở vị trí về phía Đông Cape Verde, U-65 phát hiện tàu chở dầu Anh British Zeal đang di chuyển với tốc độ . U-65 phóng hai quả ngư lôi tấn công lúc 17 giờ 52 phút, nhưng cả hai đều bị trượt. Đến 23 giờ 00, trinh sát viên trên British Zeal phát hiện ngư lôi đang tiếp cận, nên bẻ lái gấp qua mạn phải để né tránh, nhưng quả ngư lôi vẫn đánh trúng mạn phải ngay bên dưới cầu tàu, làm thủng khoang hàng hóa số 2. Cho dù biển động mạnh, thủy thủ đoàn của British Zeal lập tức chuyển sang các xuồng cứu sinh. Chiếc U-boat phóng thêm một quả ngư lôi nhưng không trúng đích, rồi một quả thứ hai lại đánh trúng mạn phải nơi vách ngăn giữa các khoang hàng hóa số 3 và số 4, khoảng 30 phút sau cú đánh trúng đầu tiên. Trời tối và biển động đã khiến chiếc U-boat không thể vận hành khẩu hải pháo trên boong, nhưng khi thấy thủy thủ Anh đã bỏ tàu, nó tin rằng mục tiêu sẽ đắm nên rời khỏi khu vực.

Khi trời sáng, thủy thủ của British Zeal thấy con tàu của họ vẫn nổi được nên quay trở lại tàu. Cho dù ba khoang bị ngập nước, sàn tàu hư hại và thủng hai lổ bên mạn phải, phòng động cơ vẫn còn nguyên vẹn. Thủy thủ đoàn khởi động lại động cơ, nhưng một lần nữa bỏ tàu do lo sợ tàu ngầm đối phương vẫn còn lãng vãng trong khu vực. Đến bình minh sáng ngày hôm sau, họ quay trở lại tàu và di chuyển về hướng Bathurst với tốc độ . Vài giờ sau đó, tàu khu trục Anh đi đến để trợ giúp, rồi tách ra để truy tìm chiếc U-boat. Chiếc tàu chở dầu tiếp tục di chuyển cho đến khi được tàu kéo hỗ trợ từ ngày 4 tháng 1, 1941, và đến được cảng Freetown vào ngày 8 tháng 1. British Zeal sau đó được sửa chữa tại Baltimore, Hoa Kỳ và quay trở lại hoạt động vào tháng 2, 1942.

U-65 có thêm chiến công sau cùng vào ngày 2 tháng 1, 1941. Lúc 22 giờ 07 phút, một quả ngư lôi duy nhất đã đánh trúng chiếc tàu buôn Anh Nalgora ở vị trí khoảng về phía Bắc quần đảo Cape Verde. Sau khoảng 20 phút, chiếc tàu ngầm trồi lên mặt nước để kết liễu mục tiêu bằng hải pháo. Toàn bộ 105 người bên trên Nalgora đều sống sót: sau tám ngày trôi nổi trên biển, 86 người được các tàu buôn Anh NolisementUmgeni cứu vớt và đưa đến Freetown; 19 người khác đi đến được quần đảo Cape Verde.

U-65 quay trở về căn cứ tàu ngầm tại Lorient vào ngày 10 tháng 1, 1941. Ghi nhận thành tích của chuyến tuần tra, Đại úy Stockhausen hạm trưởng được thăng hàm Thiếu tá Hải quân và được trao tặng Huân chương Chữ thập sắt Hiệp sĩ. Ông rời tàu để đảm nhiệm chỉ huy Chi hạm đội U-boat 26 vừa mới được thành lập.

1941

Chuyến tuần tra thứ sáu - Bị mất

Dưới quyền chỉ huy cùa hạm trưởng mới, Đại úy Hải quân Joachim Hoppe, U-65 xuất phát từ cảng Lorient vào ngày 12 tháng 4, 1941 cho chuyến tuần tra thứ sáu, cũng là chuyến cuối cùng, để tiếp tục hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Ở vị trí về phía Nam Iceland vào ngày 28 tháng 4, nó bị tàu khu trục Hải quân Hoàng gia Anh thả mìn sâu đánh chìm tại tọa độ . Toàn bộ 50 thành viên thủy thủ đoàn của U-65 đều đã tử trận.

Tóm tắt chiến công

U-65 đã đánh chìm được mười hai tàu buôn với tổng tải trọng , đồng thời gây hư hại cho ba tàu buôn với tổng tải trọng :

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-65_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-65_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1916, phục vụ trong Thế Chiến I và bị đánh đắm năm
**_U-552_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**U-boat Type IX** là một lớp tàu ngầm do Hải quân Đức Quốc xã thiết kế vào các năm 1935 và 1936 như những tàu ngầm vượt đại dương, dành cho những chuyến tuần tra
**Tàu ngầm Type IXB** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào trong giai đoạn 1938-1940. Chúng được thiết kế như những tàu ngầm đại dương hoạt
Đây là danh sách các tàu chiến thuộc Đế quốc Nhật Bản. ## Tàu chiến trung cổ * Atakebune, Tàu chiến cận bờ thế kỉ 16. * Châu Ấn Thuyền – Khoảng 350 tàu buồm
**HMS _Laforey_ (G99)** là một tàu khu trục lớp L được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào cuối những năm 1930. Nó đã nhập biên chế và phục vụ trong Chiến tranh
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**Lớp tàu chiến-tuần dương _Derfflinger**_ là một lớp bao gồm ba tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đế quốc Đức. Các con tàu này được đặt hàng trong Kế hoạch Chế tạo Hải quân 1912-1913
Chiếc **Consolidated B-24 Liberator** **(Người giải phóng)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ Hoa Kỳ do hãng Consolidated Aircraft chế tạo. Nó được sản xuất với số lượng nhiều hơn
**HMS _Ark Royal_ (91)** là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh đã từng hoạt động trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Đây là loại tàu sân bay kiểu cũ có
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
**USS _Wickes_ (DD-75)** là chiếc dẫn đầu của lớp tàu khu trục mang tên nó của Hải quân Hoa Kỳ được chế tạo trong Chiến tranh thế giới thứ nhất; sau đó được chuyển cho
**HMS _Eagle**_ là một tàu sân bay của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó được đặt lườn trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra như là chiếc thiết giáp hạm _Almirante Cochrane_
**HMS _Enterprise_ (D52)** là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Emerald_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nó đã phục vụ trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai trước khi
**USS _Buchanan_ (DD-131)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó được chuyển cho Hải quân Hoàng Gia
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**USS _Astoria_ (CA-34)** (trước đó là **CL-34**) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Hoa Kỳ thuộc lớp _New Orleans_, là chiếc tàu chiến thứ hai được đặt tên theo thành phố
**_Vittorio Veneto_** là một thiết giáp hạm lớp _Littorio_ của Hải quân Hoàng gia Ý (Regia Marina) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt tên theo Trận Vittorio Veneto, một trận
**HMS _Prince of Wales_ (53)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _King George V_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc từng hoạt động vào giai đoạn mở màn của Chiến tranh Thế giới
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**HMS _Paladin_ (G69)** là một tàu khu trục lớp P được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Được đưa vào hoạt
**Thủ Đức** là một thành phố cũ thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Tiền thân của thành phố Thủ Đức là huyện Thủ Đức cũ trước khi bị chia tách thành ba quận
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
File:2018 Events Collage.png|Từ bên trái, theo chiều kim đồng hồ: Lễ khai mạc Thế vận hội mùa đông 2018 tại PyeongChang, Hàn Quốc; Biểu tình nổ ra sau Vụ ám sát Jamal Khashoggi; Các cuộc
Tháp nước Mannheim, biểu tượng của thành phố **Mannheim**, với dân số vào khoảng 320.000 người, là thành phố lớn thứ hai của bang Baden-Württemberg sau Stuttgart, nằm ở phía Tây nước Cộng hòa Liên
**Enver Hoxha** ( _En-ve Hô-gia_ 16 tháng 10 năm 1908 - 11 tháng 4 năm 1985) là nhà lãnh đạo của Albania từ năm 1944 cho đến khi qua đời vào năm 1985, với vai
**_Schutzstaffel_** (**SS**; cách điệu hóa bằng chữ Rune Armanen là