✨Trường Sĩ quan Tăng – Thiết giáp

Trường Sĩ quan Tăng – Thiết giáp

Trường Đại học Sĩ quan Tăng - Thiết giáp (TGH) (hay Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp) trực thuộc Bộ Tư lệnh Tăng - Thiết giáp của Bộ Quốc phòng, là trường đào tạo sĩ quan chỉ huy chiến thuật tăng và thiết giáp cấp phân đội, trình độ cử nhân quân sự, bậc đại học và cao đẳng.

  • Trực thuộc: Bộ tư lệnh Tăng - Thiết giáp của Bộ Quốc phòng.
  • Thành lập vào: ngày 22 tháng 06 năm 1965.
  • Viết tắt: ĐHSQTTG/MUTAO.
  • Tên tiếng Anh: Military Unversity of Tank Armour Officer
  • Mã trường: TGH.
  • Phục vụ: Lực lượng Vũ trang Quân đội Nhân dân Việt Nam.
  • Trực thuộc: Bộ tư lệnh Tăng - Thiết giáp của Bộ Quốc phòng.

Thông tin liên hệ

Địa điểm

  • Trụ sở chính: tỉnh lộ + Km 06 đường Vĩnh Yên - Tam Đảo, xã Kim Long, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, nước Việt Nam.

Lãnh đạo hiện nay

  • Hiệu trưởng: Đại tá Đặng Tuấn Anh
  • Chính ủy: Đại tá Nguyễn Tiến Ngọc

Lịch sử

Ngày 05 tháng 10 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 499/NĐ thành lập Trung đoàn xe tăng 202, trung đoàn xe tăng đầu tiên của Quân đội Nhận dân Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu thành lập ngoài các tiểu đoàn xe tăng, pháo tự hành, các phân đội phục vụ bảo đảm có trong biên chế, trung đoàn còn có một đại đội có nhiệm vụ huấn luyện tập trung về xe tăng cho bộ đội mang phiên hiệu Đại đội 15.

Ngày 22 tháng 06 năm 1965, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng ra Quyết định số 101/QĐ-QP thành lập Bộ Tư lệnh Tăng Thiết giáp. Lực lượng trực thuộc Bộ Tư lệnh gồm 2 trung đoàn xe tăng 202, 203; ba cơ quan ( Tham mưu, Chính trị, Hậu cần kỹ thuật) và đặt biệt là một Tiểu đoàn huấn luyện mang phiên hiệu Tiểu đoàn 10 đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Thiết giáp. Về biên chế, Tiểu đoàn 10 có 3 Đại đội huấn luyện, cán bộ đại đội, trung đội vừa quản lý bộ đội vừa quản lý cơ sở vật chất đồng thời kiêm nghiệm giáo viên huấn luyện. Địa bàn đóng quân của nhà trường thuộc địa phận xã Kim Long , huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

Ngày 22 tháng 06 năm 1965 trở thành dấu mốc khởi đầu trong chặng đường xây dựng, trưởng thành của Trường Đại học Sĩ quan Tăng - Thiết giáp, đồng thời trở thành ngày hội truyền thống hàng năm của Nhà trường.

Ngày 08 tháng 03 năm 1969, Thường vụ Đảng ủy Binh chủng đã đề nghị lên Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cho phép Binh chủng tổ chức một Nhà trường có quy mô phù hợp hơn để đào tạo, bổ túc cán bộ, chiến sĩ xe tăng thiết giáp, kịp thời bổ sung cho các đơn vị. Trong thời gian chờ cấp trên chuẩn y, ngày 09 tháng 01 năm 1970, Đảng ủy Binh chủng đã ra Nghị quyết chuyên đề về tăng cường biên chế, tổ chức cho Tiểu đoàn 10 thành Đoàn Huấn luyện.

Ngày 07 tháng 01 năm 1972, Bộ Quốc phòng chính thước ra quyết định thành lập Đoàn 10 mang mật danh T600. Đoàn 10 được thành lập có nhiệm vụ: Bổ túc,đào tạo cán bộ chỉ huy sơ cấp; Bổ túc,đào tạo cán bộ kỹ thuật bậc trung học; Đào tạo chính trị viên phó đại đội; Mở các lớp tập huấn cán bộ tiểu đoàn bậc phó theo yêu cầu nhiệm vụ trên giao; Giúp đỡ nước bạn Lào bổ túc, đào tạo cán bộ, chiến sĩ, xe tăng, thiết giáp.

Ngày 10 tháng 04 năm 1973, căn cứ vào Sắc lệnh số 1121/SL ngày 11 tháng 07 năm 1959 quy định tổ chức của Bộ Quốc Phòng, theo đề nghị của Thủ trưởng Bộ Tổng tham mưu và Tổng cục Chính trị. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 56/QD-QP thành lập Trường Sĩ quan Thiết giáp thuộc Bộ Tư lệnh Thiết giáp. Trường Sĩ quan Thiết giáp có nhiệm vụ: Đào tạo, bổ túc cán bộ sơ cấp và trung cấp xe tăng, thiết giáp; Nghiên cứu, biên soạn tài liệu về xe tăng, thiết giáp; Đào tạo, bổ túc bán bộ xe tăng, thiết giáp cho nước bạn.

Cuối tháng 8 năm 1977, được sự giúp đỡ, chỉ đạo trược tiếp của Bộ Tư lệnh Thiết giáp, Nhà trường tổ chức thi tốt nghiệp cho số học viên khóa 1, đào tạo sĩ quan sơ cấp ( chỉ huy và kỹ thuật) hệ 3 năm (1974 – 1977). Đây là kỳ thi tốt nghiệp khóa học đào tạo dài hạn theo hướng chính quy, cơ bản đầu tiên của Nhà trường nên công tác chuẩn bị bảo đảm, tổ chức chỉ đạo đề được tiến hành chu đáo, chặt chẽ.

Ngày 23 tháng 10 năm 1980, thể theo nhu cầu xây dựng, chiến đấu và phát triển của Binh chủng và Nhà trường, Bộ Quốc phòng ký quyết định đổi tên Trường Sĩ quan Thiết giáp thành Trường Sĩ quan Chỉ huy – Kỹ thuật Tăng. Đây là sự kiện lịch sử đánh dấu bước trưởng thành mới của Binh chủng và Nhà trường. Với chức năng nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo được xác định rõ, nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện, đào tạo theo hướng chính quy, từng bước hiện địa của Trường Sĩ quan Chỉ huy – Kỹ thuật Tăng tiếp tục được đẩy mạnh.

Cuối năm 1911, căn cứ vào khả năng hiện có, Nhà trường đã quyết định đăng ký với Bộ Quốc phòng nâng cấp đào tạo lên bậc cao đẳng. Từ năm học 1991 – 1992, Nhà trường tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ giáo viên.

Ngày 01 tháng 04 năm 1997, Bộ Quốc phòng quyết định đổi tên Trường Sĩ quan Chỉ huy Kỹ thuật Tăng thành Trường Đại học Sĩ quan Tăng - Thiết giáp.

Năm 1998, Trường Đại học Sĩ quan Tăng - Thiết giáp được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là trường đại học quân sự trọng điểm trong lĩnh vực đào tạo chuyên ngành chỉ huy tăng - thiết giáp cho toàn quốc.

Từ khóa 20, (năm học 1997 – 1998) Nhà trường chính thức bước vào đào tạo sĩ quan tăng - thiết giáp cấp phân đội bậc đại học theo Quyết định số 180/QĐ-TTg của Chính phủ, bằng tốt nghiệp đại học thuộc hệ thống văn bằng Quốc gia. Mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo do Bộ Quốc phòng thống nhất với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Năm 1998, Trường Đại học Sĩ quan Tăng - Thiết giáp được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận là đại học quân sự chuyên ngành chỉ huy tăng - thiết giáp.

Được sự nhất trí của Đảng ủy Quân sự Trung ương ( nay là QUTW) Bộ Tư Lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp (đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng) ra Quyết định số 930/QL – 2003, ngày 30 tháng 11 năm 2003 về việc ban hành biểu tổ chức biên chế của Nhà trường giai đoạn 2004 – 2010, Quyết định thành lập, tái thành lập mốt số đơn vị mới và Quyết định số 158/QĐ-CT-2004 về việc lấy ngày 22/6/1965 – Ngày thành lập Tiểu đoàn 10 là Ngày truyền thống của Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp. Biên chế Nhà trường gồm 5 Phòng chức năng, 3 Ban trực thuộc, 9 Khoa giáo viên, 5 Tiểu đoàn. Phòng Huấn luyện đổi tên thành Phòng Đào tạo, Phòng Hành chính đổi tên thành Phòng Tham Mưu – Hành chính; Khoa xe máy trước đây nay gọi là Khao Kỹ thuật chuyên ngành Xe máy; Khoa Cơ bản – Cơ sở tách ra thành hai Khoa: Khoa Cơ bản và Khoa Kỹ thật Cơ sở. Thành lập Khoa tham mưu phương pháp, Tiểu đoàn 3 quản lý học viên sĩ quan. Ban Khoa học công nghệ môi trường ( nay là Ban Khoa học Quân sự), Ban Thanh tra ( nay là Ban Khảo thí) trực thuộc Ban Giám hiệu; Ban Bảo vệ an ninh trực thuộc Phòng Trính trị. Ngày 30 tháng 5 năm 2009, Trường Đại học Sĩ quan Tăng Thiết giáp được đón nhận danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân thời kỳ đổi mới theo Quyết định số 790/QĐ-CTN của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lịch sử xây dựng và trưởng thành của Trường Đại học Sĩ quan Tăng thiết giáp gắn liền với tinh thần đoàn kết, tự lực, tự cường, sáng tạo chủ động vượt khó, nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của tầng tầng lớp lớp cán bộ, giảng viên, học viên, quân nhân chuyên nghiệp, CNVQP, HSQ-BS trong Nhà trường. Chặng đường có nhiều khó khăn, thách thức, song với bản lĩnh chính trị vững vàng, với những bước đi cơ bản, vững chắc, vừa có kế thừa, vừa phát triển, Nhà trường đã lớn mạnh không ngừng, thực sự góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng, rend luyện, cung cấp cho Binh chủng và toàn quân hàng vạn cán bộ chỉ huy, lãnh đạo, cán bộ kỹ thuật tăng thiết giáp có phẩm chất, năng lực tốt làm nòng cốt trong xây dựng lực lượng tăng - thiết giáp với quy mô, phạm vi ngày một được mở rộng, chất lượng ngày một nâng cao, đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Nhà trường có quyền tự hào với truyền thống vẻ vang của mình và có trách nhiệm viết tiếp những trang sử vẻ vang mới bằng những cống hiến và thành tựu mới. Toàn trường tiếp tục thi đùa giữ vững và phát huy truyền thống: “Đoàn kết, tự lực, sáng tạo, chủ động vượt khó, dạy tốt, chính quy, mẫu mực và đã ra quân là đánh thắng” góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Binh chủng, xây dựng Quân đội và công cuộc xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đội ngũ giảng viên

  • Hiện nay (12/2004), toàn trường có 133 cán bộ, giáo viên có trình độ thạc sĩ và 5 tiến sĩ, 17 nhà giáo ưu tú, 167 lượt giáo viên giỏi các cấp.
  • Năm học 2010-2011, Trường phấn đấu có từ 55% đến 60% giảng viên có trình độ sau đại học, trong đó có từ 15% đến 20% là giảng viên có trình độ tiến sĩ.

Các khoa

Khoa Cơ bản

Khoa Kỹ thuật cơ sở

Khoa Thông tin

Khoa Khoa học xã hội và nhân văn

Khoa Vũ khí

Khoa Quân sự chung

Khoa Tham mưu - Phương pháp

Khoa Chiến thuật Tăng - Thiết giáp

Khoa Kỹ thuật xe máy

Danh hiệu

  • 2 Cờ Luân lưu của Chủ tịch nước (năm 1967, 1976)
  • Nhiều cờ thưởng dẫn đầu mục tiêu thi đua và phong trào thi đua của Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư Lệnh Tăng thiết giáp.
  • Hàng trăm cờ thưởng và nhiều bằng khen, giấy khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của các cấp, các ngành vì đã có thành tích trong các nhiệm vụ, trong hội thi, hội thao và các cuộc vận động lớn trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và Binh chủng Tăng thiết giáp.
  • 6 Cờ Thi đua của Thủ tướng Chính phủ (năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2011).
  • 4 Huân chương Chiến công của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1981, 1983, 1998, 1995)
  • 1 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2015)
  • 1 Danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (năm 2009)
  • 2 Huân chương Độc lập của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (năm 1977, 2004)
  • 1 Huân chương Tự do (Huân chương Itxala) của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (năm 1999)
  • 1 Huân chương Hữu nghị Thập Ba Đân của Nhà nước Campuchia (năm 2010)

Cựu học viên

  • Phan Văn Giang - Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trường Đại học Sĩ quan Tăng - Thiết giáp (TGH)** (hay _Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp_) trực thuộc Bộ Tư lệnh Tăng - Thiết giáp của Bộ Quốc phòng, là trường đào tạo
**Lớp thiết giáp hạm _North Carolina**_ là một lớp bao gồm hai thiết giáp hạm, _North Carolina_ và _Washington_, được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930 và đầu thập
**Binh chủng Tăng - Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam** là một binh chủng trong tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam, chịu trách nhiệm tác chiến đột kích trên bộ và
**Bộ Tư lệnh Tăng Thiết giáp** là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Binh chủng Tăng-Thiết giáp Quân đội nhân dân Việt Nam, có nhiệm vụ tham mưu, đề xuất cho Quân uỷ Trung
**Lớp thiết giáp hạm _South Dakota**_ là một nhóm bốn thiết giáp hạm nhanh được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là lớp thiết giáp
**Lớp thiết giáp hạm _Florida**_ của Hải quân Hoa Kỳ bao gồm hai chiếc: và . Lần lượt được hạ thủy vào các năm 1910 và 1909 tương ứng và được đưa ra hoạt động
**Lớp thiết giáp hạm** **_Bismarck_** là một lớp thiết giáp hạm của Hải quân Đức Quốc Xã (_Kriegsmarine_) được chế tạo không lâu trước khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ. Lớp này
nhỏ|HMS Dreadnought **Thiết giáp hạm** ()là một loại tàu chiến lớn được bọc thép dày với dàn hỏa lực chính bao gồm pháo có cỡ nòng rất lớn (trên 300mm). Thiết giáp hạm là loại
**_Bismarck_** là một thiết giáp hạm của Hải quân Đức, là chiếc dẫn đầu trong lớp cùng tên, được đặt theo tên vị Thủ tướng nổi tiếng trong thế kỷ 19: Otto von Bismarck, người
**_Ise_** (), là chiếc dẫn đầu của lớp _Ise_ gồm hai chiếc thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, từng tham gia hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế
**Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm _Bismarck**_ diễn ra vào ngày 26-27 tháng 5 năm 1941 tại vùng biển Đại Tây Dương, cách khu vực Brest của Pháp khoảng về phía tây, giữa
**_Nagato_** (tiếng Nhật: 長門, **_Trường Môn_**), được đặt theo tên tỉnh Nagato, là một thiết giáp hạm siêu-dreadnought được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. _Nagato_ là chiếc thiết giáp hạm đầu
**Lớp thiết giáp hạm _Littorio**_ là một lớp thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Lớp này bao gồm bốn tàu - _Littorio_, _Vittorio Veneto_, _Roma_, và _Impero_ - nhưng chỉ
**Lớp thiết giáp hạm** **_Duilio_** (thường được gọi đầy đủ là **_Caio Duilio_** theo tài liệu của Ý, hoặc **lớp thiết giáp hạm** **_Andrea Doria_** trong các tài liệu tiếng Anh) là một lớp thiết
**IJN Yamato** () là những thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo và hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên
**Lớp thiết giáp hạm _König**_ là một lớp thiết giáp hạm dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm bốn chiếc _König_, _Grosser
**Lớp thiết giáp hạm _Bayern**_ là một lớp bao gồm bốn thiết giáp hạm "siêu-dreadnought" được Hải quân Đế quốc Đức chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Lớp này bao gồm các
**Lớp _King George V**_ (lấy tên theo vua George đệ ngũ của Anh_)_ là lớp thiết giáp hạm áp chót được hoàn tất bởi Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Năm chiếc thuộc lớp này
**_Roma_** là một thiết giáp hạm của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý). Được đặt theo tên của thành phố Roma, đây là thiết giáp hạm thứ ba của lớp _Littorio_ và là một
**_Littorio_** là thiết giáp hạm dẫn đầu lớp thiết giáp hạm _Littorio_ của Regia Marina (Hải quân Hoàng gia Ý) trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên gọi của
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
**Lớp thiết giáp hạm _Scharnhorst**_ là những tàu chiến chủ lực đầu tiên, thuật ngữ dùng để chỉ tàu chiến-tuần dương hay thiết giáp hạm, được chế tạo cho Hải quân Đức (_Kriegsmarine_) sau Chiến
**Lớp thiết giáp hạm _Kaiser Friedrich III**_ là một lớp thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất; lớp bao gồm năm chiếc, tất cả đều
**Lớp thiết giáp hạm _Braunschweig**_ là những thiết giáp hạm tiền-dreadnought được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo vào những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Lớp bao gồm năm chiếc:
**_Hiei_** (tiếng Nhật: 比叡) là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Kongō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đặt tên theo đỉnh núi Hiei ở phía Đông Bắc Kyoto. Trước năm 1940, nó
Mutsu (thiết giáp hạm nhật) **_Mutsu_** (tiếng Nhật: 陸奥), được đặt tên theo tỉnh Mutsu, là chiếc thiết giáp hạm thứ hai thuộc lớp _Nagato_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Được đưa vào
**_Gneisenau_** là một tàu chiến lớp _Scharnhorst_ thường được xem là một thiết giáp hạm hạng nhẹ hay một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Đức (Kriegsmarine) hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_Mikasa_** (tiếng Nhật: 三笠; Hán-Việt: Tam Lạp) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo tại Anh Quốc vào đầu thế kỷ 20. Nó đã
**Lớp thiết giáp hạm _Wittelsbach**_ bao gồm năm thiết giáp hạm tiền-dreadnought của Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine). Chúng là những thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo theo Đạo luật Hải
**_Hyūga_** (tiếng Nhật: 日向), được đặt tên theo tỉnh Hyūga trên đảo Kyūshū, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Ise_. ## Thiết kế và chế tạo _Hyūga_
**_Kirishima_** (tiếng Nhật: 霧島) là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp _Kongō_ từng hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong trận Hải chiến Guadalcanal.
, thường được gọi là **_lớp Siêu Yamato_**, là lớp thiết giáp hạm được lên kế hoạch cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Để phù hợp với chiến lược chiến tranh của Hải quân
**_Hatsuse_** (tiếng Nhật: 初瀬) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought thuộc lớp thiết giáp hạm _Shikishima_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20, và là một trong số
**_Musashi_** (tiếng Nhật: 武蔵, _Vũ Tàng_), tên được đặt theo tên một tỉnh cũ của Nhật Bản, là một thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Thế Chiến II, và là
**_Tirpitz_** là tàu chiến thứ hai của lớp thiết giáp hạm Bismarck được đóng cho Hải quân Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó được đặt tên theo đô đốc Alfred von Tirpitz,
**Bộ Quốc phòng Việt Nam** có hệ thống học viện và nhà trường hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên nghiệp vụ ở mọi cấp các
**Cục Nhà trường** trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam là cơ quan đầu ngành tham mưu giúp Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu về công tác
**Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức** hoặc **Liên trường Võ khoa Thủ Đức** hay còn gọi là **Trường Bộ binh Thủ Đức** _(đầu tiên ở Thủ Đức, đến cuối năm 1973 thì chuyển đến
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam. ## Những vết xích tăng đầu tiên Vào năm 1918,
**Lục quân Hoa Kỳ** là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ có trách nhiệm với các chiến dịch quân sự trên bộ. Đây là một trong những quân chủng lâu đời và lớn
**Tổng cục Kỹ thuật** trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam thành lập ngày 10 tháng 9 năm 1974 là cơ quan quản lý kỹ thuật đầu ngành của Bộ Quốc phòng có chức năng
nhỏ|phải|[[Ngựa là loài được thuần hóa để sử dụng trong chiến tranh từ sớm, là động vật gắn liền với chiến trường, trận địa, với các vị danh tướng]] **Động vật trong quân sự**, **chiến
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
**Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam** là quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là đội quân từ nhân
**HMS _Warspite_ (03)** là một thiết giáp hạm thuộc lớp _Queen Elizabeth_ của Hải quân Hoàng gia Anh. Nó từng có mặt trong trận Jutland trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, rồi hoạt động
**Xe tăng kiểu 63** (Type 63) là một xe tăng do hãng Norinco của Trung Quốc sản xuất tại nhà máy 615 Thiểm Tây từ năm 1963. Mẫu xe tăng này được viện kĩ thuật
**Hoàng Trung Kiên** (sinh 1950) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, mang quân hàm Thiếu tướng, Ông nguyên là Tư lệnh Binh chủng Tăng - Thiết giáp, Quân
**Quân đội Quốc gia Việt Nam** (tiếng Pháp: _Armée Nationale Vietnamienne_, **ANV**) là lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam, là một phần của Quân đội Liên hiệp Pháp, được sự bảo trợ
**Sư đoàn 308** hay **Đại đoàn Quân Tiên phong** trực thuộc Quân đoàn 12 là Sư đoàn bộ binh chủ lực được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành lập
Hệ thống cấp bậc quân sự riêng biệt lực lượng lục quân, không quân và hải quân Hồng quân (1935-1940) - cấp bậc quân sự, được ban hành bởi các Nghị quyết của Ủy ban