✨Quân đội Quốc gia Việt Nam
Quân đội Quốc gia Việt Nam (tiếng Pháp: Armée Nationale Vietnamienne, ANV) là lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam, là một phần của Quân đội Liên hiệp Pháp, được sự bảo trợ tài chính và chỉ huy từ Liên hiệp Pháp, tồn tại từ 1950 đến 1955.
Trước khi quân đội của chính thể Quốc gia Việt Nam được thành lập thì tên gọi "Quân đội Quốc gia Việt Nam" đã được sử dụng với tư cách danh xưng chính thức của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1945. Đến năm 1950 thì mới đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hình thành
Thời kỳ Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ (1946–1949)
Trong suốt thời gian chiếm đóng Bán đảo Đông Dương, quân đội Pháp có tuyển những người Việt phục vụ trong quân đội để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các quân nhân này được đào tạo theo quy chế Pháp và đại đa số là binh lính, hạ sĩ quan với một số rất ít sĩ quan.
Khi chiến tranh lan rộng ở Nam Kỳ, để huy động thêm nguồn nhân lực nhằm để chống lại tổ chức phong trào kháng chiến Việt Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam (trụ sở ở Hà Nội), người Pháp đã thành lập ra các Lực lượng phụ trợ (Forces suppletives) bao gồm lính người Nam Kỳ được tuyển mộ tại địa phương do sĩ quan Pháp chỉ huy. Ngày 1 tháng 10 năm 1946, Vệ binh Cộng hòa Nam Kỳ được thành lập, là lực lượng quân sự đầu tiên của Chính phủ Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ. Ngày 9 tháng 6 năm 1948, Lực lượng này được đổi tên thành Vệ binh Nam Việt. Ngày 12 tháng 4 năm 1947, Lực lượng Bảo vệ quân ra đời tại Huế, năm 1948 đổi tên thành Việt binh đoàn. Tháng 7 năm 1948, lực lượng quân sự người Việt tại Bắc Kỳ ra đời mang tên Bảo chính đoàn. Thực chất, đây là những Lực lượng quân sự địa phương, tổ chức để hỗ trợ quân lực chính quy (quân đội Pháp), về nguyên tắc là trực thuộc chính quyền tự trị người Việt nhưng thực tế vẫn do các sĩ quan Pháp chỉ huy.
Thời kỳ Quốc gia Việt Nam (1949–1955)
nhỏ|phải|284x284px|Sĩ quan Pháp trao huân chương cho binh lính quân đội Quốc gia Việt Nam
Theo Hiệp định Élysée (1949), Quốc gia Việt Nam được thành lập, có quân đội và cơ quan ngoại giao riêng, đây là một Chính phủ được Pháp lập nên nhân danh nghĩa chống cộng và dân tộc chủ nghĩa nhằm chống lại Việt Minh và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo nghị định quốc phòng ngày 13 tháng 4 năm 1949, một Lực lượng Quân đội Quốc gia được thành lập, lấy tên là Vệ binh Quốc gia Các lực lượng Vệ binh Nam Việt, Việt binh đoàn, Bảo chính đoàn và Vệ binh sơn cước được chuyển sang Vệ binh Quốc gia.
Ngày 11 tháng 5 năm 1950, Thủ tướng Trần Văn Hữu tuyên bố chính thức thành lập Vệ binh Quốc gia Việt Nam với quân số lúc đó là 60.000 người.
Ngày 8 tháng 12 năm 1950, Quốc gia Việt Nam và Pháp ký Hiệp định quân sự thành lập Quân đội Quốc gia bằng cách đặt một số đơn vị quân đội người Việt do Pháp thành lập dưới quyền chỉ huy của Quốc gia Việt Nam. Dự kiến quân đội này sẽ bao gồm 120.000 quân và 4.000 sĩ quan. Tất cả sĩ quan đều phải là người Việt. Quốc trưởng Bảo Đại là Tổng chỉ huy quân đội này từ năm 1950 đến 1955.
Về việc thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam, tướng Jean de Lattre de Tassigny nhận xét người Việt có khả năng trở thành những chiến binh xuất sắc. Chỉ cần vài tuần huấn luyện là có thể tạo ra những đơn vị có khả năng tác chiến. Với số thanh niên đông đảo tại Việt Nam, nếu Quốc gia Việt Nam không tuyển mộ thì Việt Minh sẽ thu hút nguồn nhân lực đó. Vấn đề của Quân đội Quốc gia Việt Nam là thiếu chỉ huy người Việt. Để giải quyết vấn đề này cần sự trợ giúp của Mỹ.
Trong nỗ lực thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam, vấn đề cơ bản là đào tạo sĩ quan và hạ sĩ quan. Quốc gia Việt Nam thừa nhận tình trạng thiếu những người được huấn luyện quân sự nhưng tuyên bố vì lý do chính trị, việc sử dụng sĩ quan Pháp là trở ngại. Pháp có trách nhiệm hỗ trợ Việt Nam trong công tác huấn luyện sĩ quan. Trong khi đó, Pháp lại không chấp nhận trang bị vũ khí cho những đơn vị Quân đội Quốc gia Việt Nam mới thành lập trừ khi Việt Nam chấp nhận một tỷ lệ nhất định sĩ quan Pháp trong Quân đội Quốc gia Việt Nam trong thời gian sĩ quan Việt Nam đang được đào tạo tại những cơ sở huấn luyện mới thành lập. Tuy vậy, các Tư lệnh chiến trường của Pháp lại có quyền yêu cầu các đơn vị của Quốc gia Việt Nam hỗ trợ trong các cuộc hành quân.
Sự chỉ huy của Pháp
Một mặt, Pháp cho thành lập các đơn vị cấp tiểu đoàn Quân đội Quốc gia Việt Nam với chỉ huy tiểu đoàn là người Việt; mặt khác, vai trò chỉ huy ở cấp cao hơn của quân Pháp vẫn được Hiệp ước Elysee đảm bảo bằng quy định: "Trong thời chiến, toàn thể quân đội Quốc gia Việt Nam và Liên hiệp Pháp được đặt chung dưới quyền chỉ huy của Ủy ban quân sự mà Tư lệnh sẽ là một sĩ quan Pháp có một Tham mưu trưởng phụ tá."
Đa số các chỉ huy lực lượng Liên hiệp Pháp tại Đông Dương ủng hộ sự phát triển của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Marcel Carpentier, vị chỉ huy lực lượng Liên hiệp Pháp tại Đông Dương (1949-1950), ủng hộ sự lớn mạnh quân sự của Quân đội Quốc gia Việt Nam mà Pháp đã hứa hẹn, nhưng ông bác bỏ dự án của Mỹ để viện trợ trực tiếp cho Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Người kế nhiệm, tướng Jean de Lattre de Tassigny, chỉ huy cao nhất của lực lượng Liên hiệp Pháp tại Đông Dương giai đoạn 1950-1951 thì cố gắng hỗ trợ xây dựng và huấn luyện các đơn vị binh sĩ người Việt. Ông muốn xây dựng Phòng tuyến De Lattre với một loạt căn cứ quân sự mạnh từ Móng Cái đến Vĩnh Yên rồi về phía Nam tới bờ biển để ngăn không cho Việt Minh xâm nhập vào đồng bằng sông Hồng. De Lattre cần khoảng 10.000 người để thành lập các đơn vị cơ động tuần tiễu chống Việt Minh nhưng Bộ Tổng tham mưu Pháp không đồng ý tăng quân vì sự phản đối của cánh tả và dân chúng Pháp. Ông hy vọng Quân đội Quốc gia Việt Nam sẽ cung cấp cho ông lượng nhân lực cần thiết. Bảo Đại chần chừ trong việc thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam vì thiếu sĩ quan chỉ huy còn một số quan chức Pháp mang tư tưởng thực dân chống lại việc có một lực lượng quân sự bản xứ không do Pháp trực tiếp kiểm soát. De Lattre thuyết phục người Pháp cần có một Quân đội Quốc gia do người Việt chỉ huy để đỡ gánh nặng quân sự cho Pháp đồng thời hỗ trợ Quốc gia Việt Nam thành lập Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Ông bắt đầu thực hiện chương trình tăng quân số và trang bị thêm các đơn vị thiết giáp và pháo binh. Tuy nhiên, cố gắng này có phần muộn màng vì de Lattre phải trở về Pháp năm 1951.
Tướng Henri Navarre, chỉ huy cao nhất của lực lượng Liên hiệp Pháp tại Đông Dương vào những năm 1953-1954, tiếp tục ủng hộ sự phát triển Quân đội Quốc gia Việt Nam. Thời kỳ này Quân đội Quốc gia Việt Nam tăng số quân, lập đơn vị lớn hơn. Trong việc phối hợp với quân đội Pháp chống lại Việt Minh, Quân đội Quốc gia Việt Nam được giao thêm trách nhiệm và thêm quyền tự quyết. Nhờ sự ủng hộ của Henri Navarre 107 tiểu đoàn mới được thành lập gồm 95.000 binh sĩ.
Mục đích của Pháp đối với Quân đội Quốc gia Việt Nam như tướng Henri Navarre đã viết: "...cuộc chiến tranh này phải được chỉ đạo và muốn như vậy sự thống nhất hành động chính trị và quân sự phải được thực hiện trong hàng ngũ của chúng ta cũng như bên đối phương đã từng làm... Cuối cùng, tôi yêu cầu là cần phải làm tất cả để các quốc gia liên kết (trong đó có Quốc gia Việt Nam) phải thực sự tham gia chiến tranh... Đồng thời Mỹ phải từ bỏ ý định thay thế ảnh hưởng của họ."
Quá trình phát triển
nhỏ|phải|Cuộc diễn hành của một [[tiểu đoàn Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ảnh chụp tại Hồ Gươm ngày 14 tháng 7 năm 1951.]]
Quân số
Ban đầu, người Pháp từ chối hỗ trợ thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam. Khi đã chấp nhận hỗ trợ, họ không chịu trang bị pháo binh, thiết giáp và không quân cho Quân đội Quốc gia Việt Nam. Vì vậy Quân đội Quốc gia Việt Nam chỉ toàn bộ binh hạng nhẹ.
Tính đến năm 1952, Quân đội Quốc gia có 135.000 người được tổ chức thành 36 tiểu đoàn bộ binh, 3 đội thiết giáp trinh sát, 2 đại đội pháo binh. Trường Sĩ quan Địa phương ở Huế, Sài Gòn, và Hà Nội với 300 học sinh.
Edmund A. Gullion, Bí thư Cố vấn Pháp ở Sài Gòn (từ 1950) cho rằng: "Thật khó mà truyền được một tinh thần dân tộc hăng say vào một đội quân người bản xứ mà sĩ quan và hạ sĩ quan của họ đều là người Pháp da trắng... Các đơn vị Việt Nam đi hoạt động rất ít khi được người Pháp hỗ trợ... Có lẽ dấu hiệu có ý nghĩa nhất và cũng là đáng buồn nhất trong việc Pháp thiếu sót không tổ chức được quân đội Việt Nam thực sự độc lập và có thế chiến đấu theo cách của De Lattre hiểu, là ở Điện Biên Phủ đã vắng bóng mọi đơn vị chiến đấu Việt Nam. Đó là một cuộc trình diễn của Pháp". Tại Điện Biên Phủ, ngày 6/5/1954, người Việt chiếm gần 3% số sĩ quan, 16,2% số hạ sĩ quan, 39,2% số lính. Tuy nhiên quân đội Quốc gia Việt Nam có tinh thần chiến đấu thấp và có ít tiếng nói trong việc quyết định các vấn đề chiến thuật và chiến lược, và cũng có rất ít lý do để chiến đấu một cách mãnh liệt trong một cuộc chiến tranh của người Pháp.
Một trong những thành công của lực lượng Quốc gia là giữ yên vùng Bùi Chu cho đến năm 1954. Kể từ hiệp định này, họ không còn nằm dưới sự chỉ huy của Pháp.
Sang năm sau, tức năm 1955, Quân đội Quốc gia Việt Nam chuyển sang nằm dưới quyền chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam của tổng thống Ngô Đình Diệm và trở thành hạt nhân của Quân đội Việt Nam Cộng hòa.