✨Xe tăng tại Việt Nam
Bài viết dưới đây trình bày lịch sử của các loại xe tăng được sử dụng bởi các lực lượng khác nhau ở Việt Nam.
Những vết xích tăng đầu tiên
Vào năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Pháp đã giành chiến thắng với sự thất bại của nước Đức, tiếp tục duy trì vị thế của một cường quốc trên thế giới.
trái|nhỏ|Binh lính Việt Nam tham chiến trong [[trận sông Marne lần thứ hai năm 1918]]
Sau khi tổng kết kinh nghiệm của Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, rút ra rằng chiến thắng không chỉ mang lại sức mạnh toàn diện cho quốc gia, mà còn ảnh hưởng đến sức mạnh thuộc địa của nước đó và dự báo chiến lược, sức mạnh quân sự có thể quyết định trong đàm phán, nhưng sự thật là rằng lãnh thổ quốc gia có diện tích và lãnh thổ càng lớn thì tiềm lực quân sự càng lớn. Sự thất bại của Đức không chỉ là thất bại trong việc triển khai quân sự và tình trạng hỗn loạn trong nước, một yếu tố khác là nước này đang ở trong tình trạng yếu thế trước sự cạnh tranh các thuộc địa ở nước ngoài, không thể vượt qua sự phong tỏa hàng hải của Anh và Pháp, ngay cả khi sử dụng các hoạt động tàu ngầm. Hạn chế số lượng thuộc địa ở nước ngoài dẫn đến không đạt được hiệu quả chiến lược như mong đợi, thậm chí sẽ bị đối phương phong tỏa, dẫn đến thất bại về mặt chiến lược. Cả Anh và Pháp đều hút kiệt sức Đức thông qua tổng động viên các thuộc địa.nhỏ|Lính thợ Việt Nam trong một nhà máy chế tạo súng đạn ở PhápDựa vào kinh nghiệm trên, Pháp bắt đầu tăng cường đầu tư và xây dựng ở thuộc địa sau chiến tranh, có ý đồ thực hiện bản địa hoá các thuộc địa Tây Phi quan trọng nhất của Pháp và Việt Nam, biến những nơi này thành các trung tâm kinh tế và công nghiệp, đồng hóa dân thuộc địa theo tinh thần Pháp. Chuẩn bị cho Thế chiến thứ nhất ngoại trừ thuộc địa Tây Phi mà Pháp đã dày công quản lý trước Thế chiến thứ nhất, thuộc địa Việt Nam đã là cơ sở sản xuất lốp xe và cao su chính của Pháp. Với sự đầu tư của các công ty Pháp, các ngành công nghiệp bắt đầu hình thành, và đường sắt đã phát triển theo, nghiễm nhiên Việt Nam trở thành thuộc địa quan trọng thứ hai của Pháp trong quá trình mở mang bờ cõi, Pháp hy vọng có thể xây dựng Việt Nam thành pháo đài kinh tế và quân sự của riêng mình ở Châu Á, trong tương lai không chỉ có thể hỗ trợ Pháp trong Thế chiến tiếp theo, mà còn được sử dụng để mở rộng sự hiện diện của Pháp.
Tuy nhiên, để mở rộng lợi ích của Pháp ở châu Á, Pháp cần phải có quân đội đủ mạnh. Do đó, vào năm 1919, Pháp đã quyết định thành lập một lực lượng thiết giáp đóng quân tại Việt Nam . Để thành lập một lực lượng thiết giáp, trước hết cần phải nghiên cứu môi trường địa lý của Việt Nam có thể đáp ứng được nhu cầu hoạt động của thiết giáp hay không. Bộ Tổng tham mưu Pháp đã cử Thiếu tá Lục quân Cufferville sang thị sát Việt Nam vào cuối năm. Ông đã dành trọn một năm để đi khắp thuộc địa Việt Nam, khảo sát núi rừng, sông ngòi và cuối cùng kết luận rằng mặc dù hệ thống đường xá ở bán đảo Đông Dương tương đối lạc hậu, nhưng vẫn có chỗ cho các cuộc hành quân của xe tăng. Một số con đường rừng và thung lũng có thể cho phép xe tăng đi qua. Ngay cả ở những khu vực sông không có cầu, sà lan có thể được sử dụng để vận chuyển xe tăng.
Nhìn chung, Thiếu tá Courverville cho rằng trở ngại lớn nhất trong việc triển khai tác chiến xe tăng ở Việt Nam là môi trường nóng ẩm, điều này sẽ dẫn đến sự hao mòn nhanh chóng của các thiết bị cơ giới tinh vi. Tuy nhiên, nếu không tính đến tác động của nhiệt độ và độ ẩm, những lính xe tăng thậm chí có thể lái xe từ các thung lũng của Lào vào Thái Lan, rồi đi qua Thái Lan vào miền trung khá thoáng đãng của Miến Điện. Nếu xuất phát từ Hà Nội và đi về hướng Bắc, xe tăng cũng có thể đi xuyên qua môi trường rừng núi. Miễn là quân đội Pháp có đủ sức mạnh và sự hỗ trợ hậu cần, thì không có vấn đề gì lớn cho dù là đi về phía tây hay phía bắc.
Vì vậy Pháp bắt đầu triển khai lực lượng thiết giáp đến Việt Nam vào cuối năm 1919. Theo kế hoạch, nhóm quân đầu tiên được triển khai là một tiểu đoàn thiết giáp, với ba trung đội thiết giáp, tổng cộng 16 xe tăng Renault FT-17. Nhiệm vụ chính của đơn vị này là tiến hành các bài kiểm tra khả năng cơ động xe tăng trên tuyến đường do Thiếu tá Cufferville khám phá, đồng thời khám phá con đường chuyển tiếp tốt nhất và con đường cung cấp hậu cần hợp lý nhất. Kết quả kiểm tra cho thấy tác động của môi trường bản địa ở Việt Nam đối với lực lượng thiết giáp nhỏ hơn nhiều so với dự kiến trước đây của Bộ Tổng tham mưu Pháp.nhỏ|Renault FT 17Sau khi Bộ Tổng tham mưu Pháp xác nhận khả năng chiến tranh bằng xe tăng tại Việt Nam, đã quyết định cử đợt xe tăng thứ 2. Lúc này, một lực lượng thiết giáp của Pháp đang đóng tại vùng Viễn Đông của Nga với tư cách là lực lượng can thiệp của Pháp. Bộ Tổng tham mưu quyết định đơn vị này có thể gửi trực tiếp xe tăng đến các đơn vị đồn trú ở Việt Nam khi về nước. Năm 1922, quân can thiệp của Pháp rút khỏi Nga, và thuộc địa của Pháp ở Việt Nam nhận được 5 xe tăng và 3 xe bọc thép do quân can thiệp gửi đến. Để mở rộng hiệu quả chiến đấu của thực dân Pháp tại Việt Nam, quân đội Pháp cũng tuyển dụng nhiều người Việt Nam làm lính hầu, hầu hết những người hầu này đều được huấn luyện phối hợp bộ binh của Pháp, nhưng vì người Pháp lo lắng rằng lính phụ sẽ nổi loạn nên họ thường được phục vụ như những người hầu. Chỉ một số vũ khí bằng gỗ có thể được sử dụng trong quá trình huấn luyện quân sự. Người Pháp thành lập một trung đội xe tăng của binh lính Việt Nam vào cuối năm 1922, và để lực lượng này được huấn luyện cùng với những người lính xe tăng Pháp.
Đến năm 1928, đã có một đại đội xe tăng ở Đông Dương, được hỗ trợ bởi các xe chiến đấu bọc thép như White Mle 1918, AM White-Laffly và Peugeot Mle 1925. Chúng được sử dụng ở nhiều khu vực khác nhau, nơi chúng được vận chuyển chủ yếu bằng tàu biển.
Trong khoảng 10 năm tiếp theo, cứ một đến hai năm quân đội Pháp sẽ đưa 10 đến 30 xe tăng và thiết giáp sang Việt Nam. Đến năm 1936, lực lượng thiết giáp của Quân đội thuộc địa Pháp đã được mở rộng quy mô cơ giới. Hầu hết đều là xe tăng, thiết giáp cũ bị Pháp loại biên ở Châu Âu, trở thành lực lượng mạnh nhất nhì Châu Á. Ngoài Nhật ra, e rằng không lực lượng nào có thể so sánh được với thiết giáp thuộc địa Pháp Việt trên giấy tờ. Tuy nhiên, Thống đốc cho biết ít nhất 2/3 số xe này đã mất khả năng chiến đấu, do nhà máy trong nước của Việt Nam mỗi năm chỉ sửa chữa được 10 xe tăng, xe bọc thép. Vì vậy quân đội Pháp phải tiếp tục bổ sung xe tăng, thiết giáp cho Việt Nam để đảm bảo hiệu quả chiến đấu của quân đội Pháp.
Năm 1938, các đơn vị thiết giáp của Pháp ở Đông Dương được tổ chức lại thành ba đơn vị cơ giới (Détachements Motorisé) - một đặt ở Hà Nội, một ở Vinh và một ở Sài Gòn. Cả ba đơn vị đều có xe đạp bộ binh và xe vận tải bọc thép Renault UE31R đi kèm. Nhưng vào thời điểm đó, tình trạng các xe bọc thép vẫn rất thảm hại, đó là lý do tại sao chúng không tham gia vào các Cuộc đụng độ biên giới với Thái Lan từ năm 1940 đến năm 1941. Billote cho biết trong một báo cáo của mìnhː
"Thiết giáp ở Sài Gòn chỉ được sử dụng mỗi năm một lần vào ngày diễu binh 14/7, thiết giáp ở Bắc Kỳ hoàn toàn không thể sử dụng được - về cơ bản chúng là một đống sắt vụn gỉ sét và không thể sửa chữa."
Kể từ giữa năm 1940, Toàn quyền Đông Dương, Tướng Decoux, đã yêu cầu viện trợ từ Pháp với ít nhất 100 xe tăng Renault R-35, nhưng yêu cầu ông không được lắng nghe. Khi tình hình châu Á ngày càng căng thẳng, quân đội thực dân Pháp bắt đầu loại bỏ những chiếc xe tăng cũ và hỏng hóc, một số được bán cho các nước láng giềng có biên giới với Việt Nam với giá đồ cũ. Lúc này, lực lượng thiết giáp Pháp-Việt chỉ có 37 xe tăng, 17 xe thiết giáp và 12 xe bán tải. Để đảm bảo an toàn cho thuộc địa, Bộ Tổng tham mưu Pháp đã khẩn trương điều 2 đoàn tàu bọc thép, 62 xe tăng R35 và xe bọc thép, 260 mô tô, 78 xe bán bánh xích và xe đầu kéo bánh xích sang Việt Nam. Tuy nhiên, sau thất bại và đầu hàng của Pháp vào năm 1940, lực lượng thiết giáp của Quân đội thuộc địa Pháp - Việt đã mất nguồn cung cấp phụ tùng và phương tiện chủ yếu. Vào thời điểm này, quân đội thuộc địa của Pháp tại Việt Nam đang đứng trước một tình thế khó xử, đó là dù trung thành với Vichy France hay Free France, các ý kiến khác nhau cũng xuất hiện trong nội bộ quân đội, diễn biến thành đấu đá nội bộ. Bắt lấy thời cơ, Nhật Bản lập tức mở cuộc tấn công, một cuộc xung đột quy mô nhỏ đã nổ ra giữa hai bên, kết cục là sự thất bại của các lực lượng thuộc địa trung thành với Nước Pháp tự do. Quân đội Nhật Bản đã thu giữ một số xe tăng của Pháp và giao chúng cho các đơn vị đồn trú Vichy, sau đó ký hiệp định liên minh. Tuy nhiên, cả Đức và Vichy Pháp đều từ chối cung cấp xe bổ sung và phụ tùng cho các đơn vị đồn trú của Pháp. Xe tăng và phương tiện của quân Nhật rất khác so với phương tiện của Pháp, quân đội thuộc địa không có cách nào để có được bất kỳ sự bổ sung nào, cuối cùng số xe tăng còn lại cũng bị loại bỏ hoàn toàn trước năm 1945.. Hai phía sau đó tiếp tục các cuộc đàm phán ngưng bắn, nhưng không mang lại kết quả gì cho tới tận tháng 12.
Chiều 18 tháng 12, Pháp gửi cho chính phủ Việt Minh tối hậu thư đòi làm nhiệm vụ trị an ở Hà Nội và đe dọa "Đến sáng 20-12 những điều đó không được chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển hướng sang hành động". Sáng 19 tháng 12, Pháp gửi tiếp cho phía Việt Minh một tối hậu thư, đòi tước vũ khí của Vệ quốc đoàn ở Hà Nội, đòi Việt Minh phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến.
Quân Pháp có một trung đoàn xe tăng, thiết giáp trang bị 22 chiến xa, 40 thiết giáp xa.
Lực lượng phía Việt Minh gồm 2.500 Vệ quốc quân, 8.000 dân quân tự vệ, được đông đảo nhân dân thủ đô ủng hộ. Trang bị vũ khí của bộ đội còn thô sơ, chỉ có hầu hết là súng trường bắn phát một với rất ít đạn. Tổng cộng 2561 chiến sĩ Vệ quốc quân chỉ có 1516 súng trường, 3 trung liên, 1 đại liên, vũ khí chống tăng chỉ có 1 khẩu bazooka 60mm, 1000 quả lựu đạn, 93 bom ba càng, pháo binh chỉ có 7 khẩu pháo cao xạ, 1 sơn pháo 75mm, 1 pháo 25mm, 2 súng cối 60mm Trung bình hai người mới có một quả lựu đạn. Các đơn vị dân quân tự vệ trang bị còn thiếu hơn nữa, chủ yếu phải dùng vũ khí thô sơ như giáo mác, cung tên, mã tấu. Bộ đội Việt Minh hầu như không có nguồn cung súng đạn nào ngoại trừ tịch thu từ chính những đội quân nước ngoài đã trú đóng trên lãnh thổ. Thậm chí những vật tư còn dùng được sau khi trục vớt trong các tàu hàng Nhật bị đắm ở vịnh Bắc Bộ cũng được tận dụng. Quân Việt Nam trang bị lẫn lộn súng từ Âu sang Á như Lebel, Berthier của Pháp, Mauser của Đức và phiên bản sao chép Kiểu 24 của Trung Quốc, súng Arisaka của quân đội Nhật. Các loại súng trường, carbine, tiểu liên mới do Anh, Mỹ sản xuất rất hiếm. Mỗi tiểu đội Việt Nam chỉ có 3 - 4 súng trường, còn lại là dao găm, mã tấu. Nhiều súng đã cũ, gỉ sét. Súng hỏng được tháo dỡ, lấy linh kiện sửa chữa vũ khí cùng loại. Vấn đề nan giải nhất là đạn dược rất thiếu thốn. Do có quá nhiều chủng loại hỗn tạp, việc cung ứng đạn cho súng lại càng khó khăn.
Việt Nam dùng chiến thuật chiến đấu du kích trong thành phố, dùng các lực lượng nhỏ lẻ để cầm chân quân địch đông và mạnh hơn nhiều. Trong chiến đấu, binh sĩ Việt Minh đã sáng tạo, dùng chai xăng krept để đánh xe tăng, dùng chai sỏi, chai vôi bột để đánh bộ binh, dùng pháo đùng, pháo tép để nghi binh. Các tường nhà được đục lỗ thông nhau để tiện cho việc liên lạc và phục kích, cũng để quân Pháp rối trí, không biết đối phương ở đâu.
Sau khi Nhật đầu hàng và Việt Minh giành được chính quyền, có thu được một số bom ba càng của người Nhật. Theo số liệu không đầy đủ của Trung đoàn 102 (Trung đoàn Thủ đô) thì có 93 cây bom ba càng được sản xuất trong khoảng thời gian từ tháng 3/1946 đến tháng 12/1946 do công binh xưởng của Liên khu 10 (Bộ Tư lệnh Thủ đô bây giờ) sản xuất tại khu vực Gia Lâm và một điểm dưới Hà Đông. Tất cả số bom ba càng được phát cho Vệ quốc đoàn để dùng trong trận Hà Nội. Vì bộ đội Việt Minh khi đó không có súng chống tăng nên bom ba càng là vũ khí chống tăng quan trọng nhất khi đó. nhỏ|Hình minh họa cách sử dụng bom ba càng|trái Đâm bom ba càng phải là những chiến sĩ mưu trí, quả cảm, sẵn sàng hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng với phương châm diệt được xe cơ giới địch, mà tổn thất thấp nhất về sinh mạng thì cần phải giữ được yếu tố bí mật bất ngờ. Khi xuất kích, tiếp cận mục tiêu, người lính phải được sự yểm trợ tối đa của hỏa lực từ đồng đội nhằm khống chế, vô hiệu hóa hỏa lực trên xe cơ giới và lực lượng bộ binh địch đi cùng. Khi đánh bom động tác phải dứt khoát, tay trái hoặc tay phải nắm (nâng) nơi tiếp giáp đuôi bom và gậy, tay còn lại nắm chắc 2/3 của gậy, mặt bom chếch 45 độ về phía trước, cách mục tiêu 2 - 3m hạ bom ngang tầm vai hai tay lao bom vào vị trí đã chọn, phải bảo đảm ba càng bom cùng lúc chạm trên mặt phẳng của mục tiêu (xe tăng, xe bọc thép bánh hơi. Nên chọn nơi thành bên hông xe, dưới tháp pháo, với xe bán tải thì chọn nơi thành xe phía giáp cửa lên xuống, sát buồng lái trên nơi gắn thùng nhiên liệu để tạo ra hiệu quả công phá tối đa. Bom nổ gây áp lực cháy nổ rất lớn (nhiên liệu và đạn trên xe cùng bị kích nổ), sức ép một phần dội ngược lại phía sau hất người đánh bom văng mạnh về sau, tổ cứu hộ phải sẵn sàng ngay lập tức xông ra dìu chiến sĩ đánh bom vào nơi an toàn. Thông thường người chiến sĩ sẽ rất dễ hy sinh khi tìm cách tiếp cận xe tăng địch, khi đánh trúng đích thì cũng dễ hy sinh vì bị sức ép từ bom nổ và hơi nóng táp vào người, nhưng cũng có những trường hợp hiếm hoi đánh được nhiều lần. Trong một số tổng kết có nói đến một số chiến sĩ đánh cháy vài xe tăng, xe thiết giáp bằng bom ba càng mà vẫn còn sống, nhưng không thấy phổ biến kinh nghiệm. Bom ba càng đánh được xe tăng vì chủ yếu Pháp đưa sang Việt Nam xe tăng hạng nhẹ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong trận Hà Nội 1946, chừng 10 tổ cảm tử quân được thành lập, với tổng cộng chừng 100 đội viên. Họ được gọi là "quyết tử quân". Khác với đa số chiến sĩ tham gia chỉ được gọi là Vệ quốc quân hoặc tự vệ Hà Nội, họ thường mặc áo trấn thủ, đeo khăn đỏ, cầm bom ba càng, có khi được tổ chức truy điệu sống trước khi xung trận. Trong số 93 cây bom ba càng có trong trang bị, bộ đội Việt Nam đã sử dụng 47 cây và có 35 chiến sĩ cảm tử đã hy sinh khi đánh bom (tới năm 2014, có 27 liệt sỹ đã xác định được rõ ràng tên tuổi, quê quán).nhỏ|280x280px|Chiến sĩ quyết tử Nguyễn Văn Thiềng (anh Trần Thành) đang ôm trong tay một quả bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp ở Hà Nội năm 1946Chiến sỹ cảm tử nổi tiếng nhất là chiến sĩ Nguyễn Văn Thiềng (bí danh Trần Thành), chính là chiến sĩ quyết tử trong bức ảnh lịch sử năm 1946. Anh sinh năm 1927, tham gia cách mạng từ năm 1944, là đoàn viên Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu, trung đội trưởng trung đội bảo vệ Bộ Tổng tham mưu (nay là số nhà 18, phố Nguyễn Du, Hà Nội). Ngày 23/12/1946, anh Trần Thành đã dùng bom ba càng đánh hỏng được một xe tăng địch ở ngã tư Bà Triệu - Trần Quốc Toản, giết cả kíp lái Pháp trong xe. Chiều hôm đó, quân Pháp lại tấn công, anh Trần Thành lại một lần nữa ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch nhưng bom bị xịt, không phát nổ, lính bộ binh Pháp đi theo sau chiếc tăng dùng súng bắn liên tiếp khiến anh Trần Thành hy sinh. Nghệ sỹ Nguyễn Bá Khoản đã chụp được bức ảnh ghi lại khoảnh khắc lịch sử trước khi Trần Thành ôm bom ba càng lao lên và hy sinh. Bức ảnh đã trở thành biểu tượng của tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" trong kháng chiến chống Pháp.
Theo chỉ thị trực tiếp từ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi từ căn cứ địa Việt Bắc xuống, bộ đội Việt Minh cấm được dùng bom ba càng một cách bừa bãi để tránh tổn thất quân số nên bom ba càng chỉ được sử dụng trong trường hợp bất khả kháng. Đến năm 1947, Giáo sư Trần Đại Nghĩa đã thiết kế thành công và cho ra đời súng Bazooka (Ba-dô-ca) Việt Nam theo mẫu Bazooka do Hoa Kỳ chế tạo trong Thế chiến 2. Từ sau năm 1948, bom ba càng không còn được sử dụng nữa.
nhỏ|[[M4 Sherman tham chiến tại Đông Dương|trái]]
Xe tăng M3, M4
M5A1 là phiên bản cải tiến từ xe tăng hạng nhẹ M3 Stuart. Xe được trang bị pháo chính 37mm M6 với giáp dày 13-51mm. Trong giai đoạn 1946-1949, Pháp nhận được các xe M3A3 và M5A1 trong khuôn khổ chương trình Lend-Lease và sử dụng trong cuộc chiến. Số này được biên chế cho Sư đoàn thiết giáp số 2 Leclerc. nhỏ|[[Binh đoàn Lê dương Pháp|Lính lê dương Pháp tuần tra cùng xe tăng M24 Chaffee trong khu vực do Viêt Minh kiểm soát.]] Năm 1950, Quân đội Pháp thành lập trung đoàn thiết giáp thuộc địa Viễn Đông (Régiment blindé colonial d'Extrême-Orient - RBCEO) để phục vụ cuộc chiến. Lực lượng bao gồm:
- Nhóm số 1 (phi đội 1 và 2) hình thành từ lực lượng của Bộ Tổng tham mưu và Trung đội pháo tự hành chống tăng số 1 gồm 547 người từ Trung đoàn Pháo tự hành chống tăng Thuộc địa (Régiment colonial de chasseurs de chars - RCCC )
- Nhóm số 2(phi đội 3 và 4) và trung đội Pháo tự hành chống tăng số 2 gồm 322 người từ Trung tâm đào tạo bọc thép thuộc địa (Centre d'instruction colonial de l'arme blindée - CICAB).
Khi bắt đầu đến Đông Dương, quân số đã tăng lên và đạt 877 người, được trang bị 59 xe tăng Sherman:
- 53 xe M4 / M4A1 (hầu hết được trang bị pháo 75mm với hệ thống treo VVSS. Ngoài ra còn có một số chiếc có thân xe được hàn cơ học với các tấm phía trước đúc. Và thậm chí cả những xe M4A1E8 với nòng 76mm và hệ thống treo HVSS)
- 6 khẩu M4 (lựu pháo 105 mm)
Mỗi phi đội gồm 4 trung đội. Ngoài ra đơn vị cũng được trang bị các phương tiện như Dodge, xe thiết giáp bán bánh xích, súng máy M20, xe phục hồi kiểu Lee và Xe phục hồi xe tăng M32B1, sau này là pháo tự hành chống tăng M36B2 .
M24 Chaffee
Như những mẫu tăng thành công khác trong Thế chiến II, M24 được chuyển đến rất nhiều nước trên thế giới và được sử dụng bởi khá nhiều quân đội, cho đến khi được thay thế dần bởi loại tăng M41 Walker Bulldog. Những chiếc M24 đầu tiên của Pháp đến Đông Dương vào cuối năm 1950, thay thế cho các xe M3 / M5 Stuart hạng nhẹ đã lỗi thời cũng như xe tăng hạng trung M4 Sherman. Xe tăng M24 C1951 hình thành cơ sở của các đơn vị thiết giáp Pháp trong khu vực. Việc sử dụng các phương tiện bọc thép trong Chiến tranh Đông Dương bị hạn chế do tình trạng mạng lưới giao thông rất kém, kết hợp với chiến thuật du kích của Việt Minh. Theo quy định, xe tăng chỉ được sử dụng để bảo vệ các đoàn xe hoặc để bảo vệ các đơn vị đồn trú và các khu định cư. Trong điều kiện đó, sự xuất hiện của M24 đáng tin cậy và có tính cơ động cao đã làm tăng đáng kể khả năng tác chiến của lực lượng thiết giáp Pháp. M24 trong quân đội Pháp có biệt danh là "Bison". Quân Pháp từng sử dụng M24 trong các chiến dịch càn quét tại Đông Dương và cho kết quả rất tốt. Rất nhiều tăng M24 của quân đội Pháp tại Đông Dương được chuyển giao cho Quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau được Quân đội Việt Nam Cộng hòa sử dụng cho đến khi được người Mỹ viện trợ cho loại tăng M41 Walker Bulldog thay thế.
Trong cuộc chiến tại Điện Biên, đại đội xe tăng này đã gây rất nhiều khó khăn và thiệt hại cho quân đội Việt Nam. Như trong trận đánh đồi Độc Lập, ngày 15/3, quân Pháp mở cuộc phản công dưới sự chỉ huy của Trung tá Pierre Langlais, chỉ huy trưởng phân khu trung tâm thay cho Trung tá Jules Gaucher vừa tử trận, huy động 2 tiểu đoàn dù, tổng cộng 1.000 lính và tới 5 xe tăng, nhưng đang tiến quân thì bị nã pháo trúng đội hình nên bị đẩy lùi. Cuộc phản kích hòng chiếm lại con đường nối giữa phân khu Hồng Cúm và phân khu trung tâm ngày 28/3, cũng là một trận chiến khốc liệt có xe tăng yểm trợ. Trận này, xe tăng Pháp đã xông vào trận địa pháo phòng không của Việt Minh. Theo hồi ký Điện Biên Phủ - điểm hẹn lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Hữu Mai biên tâp), do không có bộ binh bảo vệ, các pháo thủ đã phải dùng cờ lê, chân súng máy... đánh giáp lá cà với lính dù Pháp.. Từ cuối tháng 7 năm 1959, các đoàn học viên lần lượt tập trung tại một doanh trại quân đội ở thành phố Quế Lâm (Quảng Tây, Trung Quốc). Tháng 8 năm 1959, gần 100 xe tăng T-34 đầu tiên được chuyển thuộc cho đoàn học viên xe tăng Việt Nam, đánh số từ 100 trở đi.
Cũng trong tháng 8 năm 1959, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng một căn cứ huấn luyện xe tăng, lấy mật danh là Công trường 92, tại khu vực núi Đanh thuộc xã Kim Long, huyện tam đảo, tỉnh Vĩnh Phú (nay thuộc huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc). Ngày 2 tháng 9 năm 1959, Thiếu tướng Trần Văn Quang, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam sang Trung Quốc thăm đoàn học viên và thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ra Nghị định số 449/NĐ, quyết định thành lập trung đoàn xe tăng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam mang phiên hiệu 202. Tuy nhiên, mãi 3 ngày sau, ngày 5 tháng 10 năm 1959, Bộ Quốc phòng mới ký quyết định thành lập một đơn vị thiết giáp cấp trung đoàn trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh, lấy phiên hiệu là Trung đoàn 202, mang mật danh H02, do Thiếu tá Đào Huy Vũ làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đặng Quang Long làm Chính ủy. Ngoài ra, khoảng 350 chiếc Type-59 và khoảng 100 chiếc Type-62 đã được nhận từ Trung Quốc.
Về xe thiết giáp, Việt Nam nhận được sớm nhất là loại BTR-152 gồm 100 chiếc được giao năm 1961 và 100 pháo tự hành SU-100 giao năm 1962. Từ 1963 đến 1966, có thêm 50 xe trinh sát BRDM và 100 xe bọc thép BTR-40 được giao. Đến năm 1968, Việt Nam tiếp nhận lô viện trợ xe bọc thép lớn nhất là 400 xe BTR-50. Ngoài ra, từ 1971 đến 1976, Liên Xô viện trợ 150 khẩu pháo cao xạ tự hành gồm ZSU-57-2 và ZSU-23-4. Đúng 17 giờ, những chiếc xe tăng T-34 do Liên Xô viện trợ đã được chuyển bằng xe lửa về tới ga Vĩnh Yên; 18 giờ 33 phút, chiếc xe tăng mang số hiệu 114 do trung sĩ Đào Văn Bàn điều khiển đã in vết xích đầu tiên trên mảnh đất Việt Nam.
Xe tăng T-34-85 được trang bị một pháo chính 85mm ZiS-S-53 hoặc D-5T, 1 súng máy DT đồng trục với pháo chính cỡ nòng 7.62mm và một súng máy DT ở mặt giáp trước sử dụng bởi xạ thủ súng máy ngồi song song với lái xe. Các xe tăng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được tân trang lại ở Liên Xô trước khi chuyển giao và hầu hết nếu không muốn nói là tất cả đều có bánh xe đường trường kiểu T-54/55, có một điện đài mới hơn (kiểu 10RT). Ngoài ra, các xe T-34-85 của Việt Nam còn được bổ sung thêm một súng máy DShK cỡ nòng 12.7mm trên tháp pháo để bắn máy bay tầm thấp cũng như bộ binh, những chiếc T-34-85 nguyên bản không có vũ khí này, nó đã tăng cường sức mạnh hỏa lực cho các xe tăng, giảm bớt các nguy cơ gây nguy hiểm cho xe trên chiến trường. Tuy nhiên do nguyên bản tháp pháo không được trang bị súng máy 12.7mm nên việc bổ sung cần phải hàn thêm một bệ giá đỡ ở phía bên phải của tháp, nó khiến hạn chế tầm bắn của súng khi xạ thủ chỉ có thể quay súng về bên phải mà không thể quay sang phía bên trái nếu như vẫn ngồi trong xe.
Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao gồm 1 xe MTY-10, 4 xe dắt T-34 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 72 xe T-34. phải|Xe tăng [[Xe tăng T-34|T-34-85 tại Bảo tàng Quân khu 5, Đà Nẵng]] Tuy nhiên, phải đến cuối năm 1970, Tiểu đoàn xe tăng 397 thuộc Trung đoàn 202 trang bị xe T-34 mới được đưa vào nam Quân khu 4 để chuẩn bị tham gia chiến dịch phản công Đường 9- Nam Lào cùng các Tiểu đoàn 297 (trang bị T-54/59) và 198 (trang bị PT-76). Khi đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã sử dụng xe tăng T-34-85 tiến công quân Mỹ lần đầu tiên trong Chiến dịch đường 9 - Nam Lào tháng 3/1971. Chiều ngày 19/3/1975, trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Đại đội xe tăng 7 (với 6 xe tăng T-34) bí mật cơ động vào tập kết ở Phương Lang Đông (Triệu Phong, Quảng Trị). Ngày 23/3, Đại đội đã phối hợp với Tiểu đoàn bộ binh 3 của Quảng Trị đánh tan Tiểu đoàn Thủy quân lục chiến 8 và giải phóng quận lỵ Mai Lĩnh, bắn cháy 2 xe tăng M41. Trong các ngày 24 và 25,3, Đại đội 7 tiếp tục cùng bộ binh tiến công quận lỵ Hướng Điền. Đại đội 7 (lúc này còn 4 xe T-34) vượt lên dẫn đầu đội hình truy kích, bắn cháy 1 xe tăng M48 Patton và 1 xe tăng M41, truy kích đến Bắc Thuận An, góp phần giải phóng tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 25/3/1975. Đây cũng là trận đánh cuối cùng của xe tăng T-34 tại chiến trường Việt Nam.
Xe tăng T-54
nhỏ|Xe tăng T-54A số hiệu 843 bảo tàng Lịch sử quân sự ˞Hà Nội|trái
Cũng trong năm 1960, một số đoàn học viên khác cũng được gửi đi Liên Xô để được đào tạo nâng cao và học về loại T-54 hiện đại hơn. Tuy nhiên, do những bất đồng chính trị, từ cuối năm 1964, Việt Nam không gửi các đoàn học viên sang học nữa. Ngày 1 tháng 3 năm 1961, đại đội huấn luyện, mật danh C12, được thành lập để huấn luyện đào tạo cho Sư đoàn 308 một tiểu đoàn xe tăng với quân số 172 người, đào tạo cho Bộ 10 cán bộ, 150 thợ sửa chữa xe tăng- thiết giáp và 2 đại đội xe bọc thép với quân số 164 người. Ngày 29 tháng 2 năm 1962, Việt Nam tiếp nhận thêm một số trang bị mới bao gồm 11 xe T-54 do Liên Xô viện trợ. Cuối năm 1963, Việt Nam tiếp nhận thêm 11 xe T-54.
Theo nhà nghiên cứu Mikhail Baryatinsky, tổn thất của PT-76 trong chiến tranh là "rất cao", nhưng ông không nêu rõ số lượng tổn thất, chi tiết hay đơn vị bị tổn thất
Hoa Kỳ và đồng minh
nhỏ|Xe tăng [[M24 Chaffee|M24 của Pháp được vận chuyển từ LSU-531 lên USS Tortuga (LSD-26) để bàn giao cho miền Nam Việt Nam, tháng 8-9 / 1954|trái]] Năm 1950, Chính phủ Quốc gia Việt Nam thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam. Đã được Quân đội Liên hiệp Pháp hỗ trợ để thành lập một đơn vị Thám thính xa. Năm đó cũng chứng kiến sự thành lập đồng thời của một khoa đào tạo thiết giáp trong Trường Võ Bị Việt Nam tại Đà Lạt và một đại đội trinh sát được trang bị xe thiết giáp M8 do sĩ quan Pháp và lính Việt Nam điều khiển. Năm 1952, một trường thiết giáp được thành lập tại Thủ Đức, phía Đông Bắc Sài Gòn, để đào tạo những sĩ quan tương lai của lực lượng thiết giáp Việt Nam. Khóa huấn luyện cơ bản được dạy bằng cách sử dụng 178 chiếc xe bọc thép Panhard cổ điển của Pháp trước Thế chiến thứ nhất. Khóa đào tạo cấp cao được cung cấp tại Trường Thiết giáp Saumur ở Pháp. Trung đoàn 3 Thiết giáp (3 ° Régiment Blindé Vietnamien) bắt đầu hoạt động từ năm 1953. Trung đoàn có một đại đội chỉ huy và ba đại đội trinh sát được trang bị xe bọc thép trinh sát M-8, trung liên M-3, xe trinh sát M-3, và lựu pháo M-8. Bốn phi đội thiết giáp trinh sát riêng biệt cũng được thành lập, được trang bị xe bọc thép M-8 và xe trinh sát M-3. Các đơn vị thiết giáp được sử dụng chủ yếu cho các nhiệm vụ an ninh đường bộ và hỗ trợ các chiến dịch chống du kích. và 50 xe tăng từ Hoa Kỳ . Chúng phục vụ trong các đại đội xe tăng 1, 2, 3 và 4 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Cho đến năm 1956, các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng xe bọc thép ở một mức độ hạn chế, cả do chúng bị hao mòn mạnh và do trình độ đào tạo kíp lái thấp. Tình hình chỉ được cải thiện phần nào khi có sự xuất hiện của các cố vấn quân sự Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam; tuy nhiên, ngay cả sau đó, trình độ huấn luyện chiến đấu của các đơn vị miền Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn tiếp tục ở mức thấp. nhỏ|Những chiếc M24 diễu hành ở Sài Gòn, đầu những năm 1960 Kể từ tháng 1 năm 1965, những chiếc M24 trong lực lượng thiết giáp Việt Nam Cộng hòa dần được thay thế bằng những chiếc xe tăng M41 Walker Bulldog do Hoa Kỳ cung cấp, vì vậy khi bắt đầu tăng cường chiến sự, số lượng của chúng đã tương đối ít. Tuy nhiên, M24 tiếp tục phục vụ ít nhất là cho đến năm 1972 và được sử dụng, đặc biệt là trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. nhỏ|M24, được bao phủ bởi một bức tường bao cát, phục vụ như một trạm kiểm soát ở Việt Nam, 1965|trái
Xe tăng M41 Walker Bulldog
Vào tháng 1 năm 1965, xe tăng M41 Walker Bulldog bắt đầu được giao cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa, sau đó chúng được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Việt Nam. Tổng cộng, VNCH đã nhận được ít nhất 599 xe tăng như vậy: 580 chiếc từ đầu cuộc chiến đến ngày 15 tháng 12 năm 1972 và 19 chiếc vào năm 1974. nhỏ|xe tăng M41 Việc sử dụng thường xuyên M41 của quân đội và chính trị gia Việt Nam Cộng hòa trong các cuộc đảo chính nên đôi khi người Mỹ gọi M41 là "xe tăng các cuộc đảo chính" (coup tanks) hoặc "xe tăng biểu quyết" (voting machines).
Các đơn vị trang bị xe tăng M41ː
- Đại đội 1 lữ đoàn thiết giáp số 3;
- Đại đội 3 lữ đoàn thiết giáp số 2;
- Đại đội 4 lữ đoàn thiết giáp số 1;
- Đại đội 5 lữ đoàn thiết giáp số 3;
- Đại đội 7 lữ đoàn thiết giáp số 1;
- Đại đội 8 lữ đoàn thiết giáp số 2;
- Đại đội 11 lữ đoàn thiết giáp số 1;
- Đại đội 14 lữ đoàn thiết giáp số 2;
- Đại đội 15 lữ đoàn thiết giáp số 3;
- Đại đội 17 lữ đoàn thiết giáp số 1;
- Đại đội 18 lữ đoàn 3 thiết giáp số 3;
- Đại đội 19 lữ đoàn thiết giáp số 2;
- Tiểu đoàn huấn luyện lữ đoàn thiết giáp số 3.
- Đơn vị PHILCAG-V của Philippines được trang bị 2 xe tăng M41 nhận được vào tháng 7 năm 1966.
Biên chế của đại đội xe tăng VNCH gồm 17 xe M41. Trong cuốn sách "Walker Bulldog vs T-54: Lào và Việt Nam 1971-75", Chris McNab tuyên bố rằng M41 cũng đang phục vụ cho các đại đội xe tăng thứ 2, 6, 9, 10 và 12 của ARV
- Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Thiết giáp 34, Sư đoàn bộ binh 25, Lục quân Hoa Kỳ: 8/1966 - 12/1970
- Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Thiết giáp 69, Sư đoàn Bộ binh 4, Lục quân Hoa Kỳ: 3/1966 - 4/1970
- Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Thiết giáp 77, Sư đoàn Bộ binh 5, Lục quân Hoa Kỳ: 7/1968 - 7/1971
- Tiểu đoàn xe tăng 1 Thủy quân Lục chiến: 3/1966 - 3/1970
- Tiểu đoàn xe tăng 3 Thủy quân Lục chiến: 3/1965 - 10/1970
- Tiểu đoàn xe tăng 5 Hoa Kỳ (không bao gồm Đại đội 3): 7/1967- 11 /1969nhỏ|Thay động cơ xe tăng M48 căn cứ Đông Hà
Biên chế của đại đội gồm có 17 xe tăng M48, tiểu đoàn - 57 xe tăng M48, trung đoàn 11 - 132 xe tăng M48.
Ban đầu, các xe tăng mới được lên kế hoạch thử nghiệm với số lượng hạn chế như một phần của lực lượng mặt đất. Mặc dù vậy, các đơn vị thủy quân lục chiến là những người đầu tiên đưa xe tăng đến Việt Nam vào tháng 3/1965. Các cuộc đụng độ quân sự đầu tiên diễn ra vào mùa hè. Đến cuối năm, Tiểu đoàn xe tăng 3 Hoa Kỳ đã có 65 xe M48 và 12 xe phun lửa M67 tại Việt Nam. trái|nhỏ|M48A3 sau vụ nổ mìn tại Việt Nam nhỏ|M48 với con lăn phá mìn Tháng 9 năm 1966, tiểu đoàn 2 của trung đoàn xe tăng 34 đến Việt Nam. Trong cuộc hành quân lớn đầu tiên thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, 34 chiến xa M48A3 ngay lập tức bị kẹt trong bùn, chiếm hơn một nửa số xe, hoạt động tạm thời bị đình chỉ.
Ngày 2 tháng 12 năm 1966, một chiến xa Mỹ dưới sự yểm trợ của Đại đội 1 Trung đoàn xe tăng 11 tại khu vực Soi Kata đã bị Tiểu đoàn 275 bộ binh quân Giải phóng phục kích. Theo Hoa Kỳ tuyên bố, quân Giải phóng đã bị đánh bại bởi hỏa lực của xe tăng M48 và ACAV, khiến 93 người thiệt mạng và phải rút lui.
Vào ngày 31 tháng 12 năm 1967, một đoàn xe vận tải gồm 60 chiếc dưới sự che chở của 11 xe bọc thép (2 xe tăng M48 của Trung đoàn 5C, 8 xe bọc thép chở quân ACAV và 1 xe gắn súng cối), trước khi đến trại Blackhorse, đã bị phục kích bởi bộ binh. Trong vòng 10 phút, hầu hết các xe hộ tống đã bị hỏa lực của quân Giải phóng phá hủy: 1 xe tăng và 4 chiếc ACAV bị phá hủy, 1 xe tăng và 3 chiếc ACAV khác bị hỏng nặng, 42 lính Mỹ chết hoặc bị thương. Quân Giải phóng không bị tổn thất gì (không có ai chết hoặc bị thương).
Đầu năm 1968, hàng trăm chiếc M48 Patton của Mỹ đã tham gia cuộc tấn công năm mới. Các trận đánh lớn nhất có sự tham gia của quân lính Mỹ diễn ra ở Khe Sanh, Huế, Longwin và Sài Gòn. Trong quá trình bảo vệ cứ điểm Khe Sanh, 5 xe tăng M48 đã tham chiến. Tại Huế, cùng với M24 và M41 của VNCH, hai M48 và hai M67 phòng thủ. Các xe Pattons đóng một vai trò quyết định trong trận chiến khó khăn này. Một chiếc M48 đã bị phá hủy. Trong cuộc tấn công, VNDCCH và các du kích miền Nam Việt Nam lần đầu tiên bắt đầu sử dụng ồ ạt các loại súng phóng lựu chống tăng RPG-7 mới nhất, dẫn đến tổn thất nặng nề của xe tăng Mỹ, đặc biệt là xe tăng chạy bằng xăng M48A1. Như Đại tá Lục quân Hoa Kỳ Frederick Oldinsky, người từng phục vụ tại Việt Nam với tư cách là cố vấn quân sự, đã chỉ ra rằng: trong hầu hết các trường hợp giáp trước của M48 có thể chống chịu được đạn chống tăng RPG-2, nhưng một cú đánh từ súng RPG-7 vào bất kỳ điểm nào của xe tăng đều đủ sức xuyên qua lớp giáp xe. Một trường hợp được ghi nhận khi một xe tăng phải chống đỡ 19 đợt tấn công mỗi ngày và hai trong số các tổ lái của nó đã bị mất khả năng chiến đấu, nhưng nó vẫn sẵn sàng chiến đấu.nhỏ|M48 thuộc Tiểu đoàn xe tăng 1 ủi đất yểm trợ cho Thủy quân Lục chiến Mỹ phía Nam Đà Nẵng|trái
Vào tháng 1 năm 1969, xe tăng hạng trung M48 Patton bắt đầu được thay thế bằng xe tăng hạng nhẹ M551 Sheridan; lính tăng Mỹ phản ứng cực kỳ tiêu cực với sự thay thế này, vì Sheridan là xe tăng hạng nhẹ nên không cung cấp sự bảo vệ đáng tin cậy cho kíp lái khỏi đạn RPG và mìn, không giống như M48.
Số lượng xe tăng M48 tối đa đạt được vào giữa năm 1968, khi tất cả các đơn vị đều đến nơi. Lục quân Hoa Kỳ có hơn 400 xe tăng M48; USMC có hơn 150 xe tăng M48, với tổng số khoảng 600 xe.
Từ năm 1965 đến năm 1968, Hoa Kỳ đã mất 120 Patton do thiệt hại chiến đấu. Từ tháng 7 năm 1968 đến tháng 6 năm 1969, 63 xe tăng M48 đã bị tiêu diệt bởi các hành động của đối phương. Từ năm 1969 đến năm 1972, số lượng M48 được sử dụng ít hơn nhiều (chúng được thay thế bằng M551) và tổn thất không thể thu hồi là 3 chiếc M48A3, tổn thất có thể sửa chữa lại của các xe Patton khác trong giai đoạn này là không rõ..
nhỏ|M48 yểm trợ TQLC Mỹ tại Kinh thành Huế năm 1968
Các đơn vị Việt Nam Cộng hòa với xe tăng M48 Patton:
- Trung đoàn xe tăng 20 thuộc lữ đoàn xe tăng 1.
- Trung đoàn xe tăng 21 thuộc lữ đoàn xe tăng 2.
- Trung đoàn xe tăng 22 thuộc lữ đoàn xe tăng 3.
- Tiểu đoàn xe tăng huấn luyện.
Một trung đoàn VNCH là tương đương với một tiểu đoàn trong QĐ Mỹ, một thiết đoàn Quân Lực VNCH là tương đương với đại đội hoặc phân đội kỵ binh Mỹ. Thành phần chính quy của trung đoàn gồm 57 xe tăng M48
Tổng cộng, tính đến ngày 15 tháng 12 năm 1972, Việt Nam Cộng hòa đã nhận được 329 xe tăng M48A3 từ Hoa Kỳ. Từ tháng 1 năm 1973 đến tháng 7 năm 1974, Hoa Kỳ đã chuyển giao 16 xe tăng M48 Patton cho Việt Nam Cộng hòa (theo GAO). Trong tổng số 345 M48 Patton cung cấp cho VNCH, không có thông tin nào về các chuyến hàng sau tháng 7 năm 1974. Điều đáng chú ý là báo cáo của Quốc hội Hoa Kỳ cho năm 1975 đề cập đến việc cung cấp 343 M48 cho ARV trong toàn bộ thời gian là đồng minh.
Đến cuối tháng 1 năm 1973, QLVNCH có M48 trong biên chế với 3 trung đoàn xe tăng: 20, 21 và 22.
Tính đến tháng 4 năm 1974, CIA ước tính Việt Nam Cộng hòa có 600 xe tăng và 1.800 khẩu pháo. Quân đội Nhân dân Việt Nam có 600 xe tăng và 350 khẩu pháo.
Tính đến tháng 1 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa có 277 xe tăng M48A3:
- MR1: Trung đoàn 20, Lữ đoàn 1 - 54 xe M48, trong đó 53 xe sẵn sàng chiến đấu.
- MR2: Trung đoàn 21, Lữ đoàn 2 - 54 xe M48, trong đó 47 xe sẵn sàng chiến đấu.
- MR3: Trung đoàn 22, Lữ đoàn 3 - 56 xe M48, trong đó 54 xe sẵn sàng chiến đấu;
- Tiểu đoàn huấn luyện - 11 M48, tất cả sẵn sàng chiến đấu.
- Đang dự trữ / sửa chữa - 88 M48.
nhỏ|M48-Patton tại Sài Gòn Tính đến tháng 7 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa có 288 xe tăng M48A3:
- MR1: Trung đoàn 20, Lữ đoàn 1 - 55 xe M48, trong đó 54 sẵn sàng chiến đấu.
- MR2: Trung đoàn 21, Lữ đoàn 2 - 61 xe M48, trong đó 52 chiếc sẵn sàng chiến đấu.
- MR3: Trung đoàn 22, Lữ đoàn 3 - 59 xe M48, trong đó 53 chiếc sẵn sàng chiến đấu;
- Tiểu đoàn huấn luyện - 11 xe M48, 10 chiếc sẵn sàng chiến đấu.
- Đang dự trữ / sửa chữa - 102 M48.
Tính đến tháng 10 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa có 271 xe tăng M48A3:
- MR1: Trung đoàn 20, Lữ đoàn 1 - 54 xe M48, tất cả đều hoạt động.
- MR2: Trung đoàn 21, Lữ đoàn 2 - 54 xe M48, trong đó 51 chiếc sẵn sàng chiến đấu.
- MR3: Trung đoàn 22, Lữ đoàn 3 - 54 xe M48, trong đó 50 chiếc sẵn sàng chiến đấu;
- Tiểu đoàn huấn luyện - 10 M48, tất cả đều sẵn sàng chiến đấu.
- Đang dự trữ / sửa chữa - 99 M48.
Vào đầu năm 1975, theo Lầu Năm Góc, Việt Nam Cộng hòa có khoảng 250 xe tăng M48A3 và khoảng 300 M41, và quân Giải phóng miền Nam cũng có một số chiếc M48 bị bắt (theo nhà nghiên cứu phương Tây Alexander Gillespye, năm 1975 là quân đội VNCH có 600 xe tăng M48, nếu chúng ta so sánh số liệu này với số liệu của Lầu Năm Góc, có khả năng con số này bao gồm cả xe tăng M41 ). Vào tháng 3, quân Giải phóng đã phát động cuộc tấn công cuối cùng của họ, trong đó những chiếc T-54 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và những chiếc M48 bị bắt giữ đã chiến đấu với quân lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Ngày 30 tháng 4, quân Giải phóng thuộc Trung đoàn 202 thiết giáp tham gia đánh chiếm Sài Gòn. Tất cả 250 chiếc M48 của Việt Nam Cộng hòa đã bị phá hủy hoặc bị tịch thu, một số người trong số chúng đã đến tay quân Giải phóng như chiến lợi phẩm. Ví dụ, tại Quân khu 2, lính tăng Việt Nam Cộng hòa toàn lực đã bỏ lại các xe M48 thuộc tiểu đoàn 21 từ lữ đoàn 2.
Như vậy, trong toàn bộ cuộc chiến, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, theo ước tính tối thiểu, đã mất khoảng 500 xe tăng M48 một cách không thể cứu vãn được. Một tiểu đoàn xe tăng M48A3 bị bắt đã được quân Giải phóng giao cho CHDC Đức, từ đó một đơn vị đặc nhiệm được thành lập. Việt Nam đã bàn giao ít nhất một xe M48 cho Liên Xô, và một chiếc khác được bàn giao cho Cuba.
M67
Xe tăng M67 được chế tạo vào năm 1952 - 1954, là biến thể phun lửa dựa trên xe tăng M48, theo sáng kiến của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Trong quá trình sản xuất hàng loạt, kéo dài từ năm 1955 đến, theo nhiều nguồn tin khác nhau, năm 1956 hoặc 1959, 109 xe tăng M67 đã được sản xuất cho Lực lượng Thủy quân lục chiến và Lục quân Hoa Kỳ.nhỏ|phải|M67 tại ngoại ô Sài Gòn tháng 1 năm 1966Theo quy định, M67 không được phép triển khai cho quân đội tại Việt Nam, nhưng Thủy quân lục chiến không có bất kỳ hạn chế cụ thể nào đối với việc sử dụng các phương tiện bọc thép của họ, kể cả M67, ngay từ đầu cuộc chiến. Tại Việt Nam, những chiếc M67A2 thuộc tiểu đoàn xe tăng 1 và 3, được trang bị 12 xe tăng phun lửa vào cuối năm 1965. M67 đã được sử dụng trong một số chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Một trong những chiến dịch đầu tiên trong số này là Chiến dịch Starlite, trong đó một đội gồm 3 xe tăng phun lửa, cùng với 5 xe M48, được triển khai tại khu vực Xanh để hỗ trợ cho Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 7 Thủy quân lục chiến. Tại cuộc chiến tại Huế trong năm 1968, những chiếc xe tăng đầu tiên tiến vào thành phố là hai chiếc M67, cùng với hai M48 từ sở chỉ huy đại đội của tiểu đoàn xe tăng 3, chuyển hướng trong quá trình chuyển giao tiểu đoàn vào Quảng Trị. Trong 11 ngày, bốn chiến xa này là những phương tiện thiết giáp duy nhất của Thủy quân lục chiến trong thành phố, yểm trợ cho Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 5 và Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 Thủy quân lục chiến trong các trận đánh phía nam sông Hương. Tại Huế, các xe tăng súng phun lửa cũng được sử dụng cho các nhiệm vụ an ninh, tuy nhiên, do không có đủ phương tiện tiếp liệu cần thiết để tiếp nhiên liệu bằng hỗn hợp lửa, M67 sử dụng vũ khí súng máy của chúng thường xuyên hơn nhiều so với súng phun lửa.
Thông thường, xe tăng súng phun lửa ở Việt Nam được sử dụng đơn lẻ, và khẩu M67 thường được đưa vào các trung đội xe tăng thông thường để tăng cường hỏa lực cho chúng. Nhìn chung, việc sử dụng M67 ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Do không có đủ lượng hỗn hợp hỏa lực có thể vận chuyển để sử dụng trong các cuộc đột kích vào sâu, M67 được sử dụng chủ yếu trong hệ thống phòng thủ căn cứ. Tại các căn cứ, việc sử dụng M67 để đốt thực vật xung quanh chu vi và đốt chất thải không phải là hiếm. Ngoài việc không đủ đạn, một trong những nguyên nhân khiến việc sử dụng súng phun lửa ở Việt Nam còn hạn chế là do việc sử dụng tích cực các đợt ném bom napalm trên không. Không quân của Thủy quân lục chiến đã giảm nhu cầu về súng phun lửa trên mặt đất.
Trong điều kiện chiến tranh du kích, điển hình của cuộc giao tranh ở Việt Nam là việc sử dụng xe tăng phun lửa để tiến hành tán công tại những nơi có thể trú ẩn của du kích, đặc biệt là khi canh gác chốt - để đốt cháy các bụi rậm dọc theo sườn của đường. Ngoài ra, M67 còn tỏ ra là một phương tiện hữu hiệu để chống phục kích. Một trong những vai trò truyền thống của súng phun lửa là chống lại các vị trí kiên cố; Đặc biệt, M67 được sử dụng để đốt cháy các công sự của Việt Nam trong vùng lân cận căn cứ Cồn Thiên. Phá hủy những kho đạn dược trở thành một trong những nhiệm vụ chính của M67 trong các chiến dịch tấn công ở Việt Nam, và trong vai trò này, xe tăng phun lửa đã thể hiện mình rất thành công.nhỏ|M67 đốt cháy bụi cây ven đường tại Việt Nam năm 1967|trái
Các đánh giá chung về M67 của các chuyên gia, cũng như các xe tăng phun lửa nói chung, là trái chiều. Một mặt, súng phun lửa có tác động tâm lý đáng kể và kinh nghiệm của các cuộc xung đột sau chiến tranh cho thấy hiệu quả của nó trong cuộc chiến chống lại nhân lực, công sự và thiết bị. Đồng thời, một nhược điểm nghiêm trọng của M67, biểu hiện trong các cuộc chiến ở Việt Nam, đó là thiếu dự trữ hỗn hợp hỏa lực để sử dụng xe tăng trong các cuộc hành quân lâu dài. Mặc dù xe tăng phun lửa đôi khi cũng tham gia vào các hoạt động tấn công, nhưng không đơn vị nào sẵn sàng đưa các phương tiện tiếp tế không bọc thép vào trận chiến để tiếp nhiên liệu cho chúng. Ngoài ra, các thùng chứa súng phun lửa yêu cầu nguồn cung cấp riêng xăng, các thành phần hỗn hợp cháy và khí nén, cùng với nhu cầu sử dụng các phương tiện hỗ trợ đặc biệt, đã tạo thêm gánh nặng cho các công tác hậu cần và là một lý do khác dẫn đến thái độ tiêu cực với M67 bởi chỉ huy xe tăng. Mặc dù có những thiếu sót, M67 được đánh giá là đáp ứng các yêu cầu điều này khiến nó có thể sử dụng vũ khí súng phun lửa hiệu quả hơn, với tầm bắn hạn chế so với các loại xe bọc thép hạng nhẹ, và thậm chí nhiều hơn nữa các mô hình cầm tay. Tuy nhiên, tại Liên Xô, vào đầu những năm 1960, quân đội đã đi đến kết luận rằng tiến bộ trong lĩnh vực vũ khí chống tăng khiến việc sử dụng xe tăng với súng phun lửa kiểu phản lực không hiệu quả. xe tăng phun lửa không chỉ phải đi vào tầm bắn chính xác của xe tăng, súng chống tăng và súng không giật, có khả năng bắn nó từ khoảng cách 400-1000 mét và không gặp vấn đề gì khi xuyên giáp- mà thậm chí còn liên quan nhiều hơn đến những người dần dần nhận được sự phổ biến của ATGM - mà còn vào khu vực sử dụng hiệu quả các loại vũ khí chống tăng thủ công hàng loạt ở cấp trung đội; Hơn nữa, nếu RPG-2 đời đầu, theo kinh nghiệm của Chiến tranh Việt Nam, tỏ ra kém hiệu quả trước lớp giáp của nó, thì RPG-7, được sử dụng vào năm 1961, cung cấp khoảng 40% cơ hội bắn trúng và tiêu diệt M48A5 (M67A2) chỉ với một phát bắn. Vòm của chỉ huy M1 cũng bị chỉ trích, nó không chỉ làm tăng kích thước và giảm tầm nhìn của xe tăng mà còn không cung cấp đủ khả năng bảo vệ cho chỉ huy. Tình huống sau càng trở nên trầm trọng hơn bởi thực tế là tầm bắn ngắn của M67 tạo cơ hội cho đối phương nhắm bắn vào các thiết bị quan sát dễ bị tổn thương của tháp pháo. Hệ thống chữa cháy lỗi thời không góp phần làm tăng khả năng sống sót của xe tăng, về cơ bản không thay đổi kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù thực tế là một xe tăng với hơn một tấn hỗn hợp cháy được đặt trong tháp pháo của xe tăng, để dập tắt đám cháy trong khoang chữa cháy, kíp lái chỉ có một bình chữa cháy carbon dioxide thủ công.
M551 Sheridan
Từ năm 1966, Bộ tham mưu Lục quân Hoa Kỳ tại Washington đã khuyến nghị với Tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, Tướng Westmoreland, rằng Sheridan nên được sử dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, vì đạn của pháo chính không có sẵn, ông cho rằng đó chỉ đơn giản là bệ súng máy trị giá 300.000 USD.
Cuối năm 1968, Tướng Abrams gặp Đại tá George S. Patton IV - con trai của Tướng Patton trong Thế chiến II - là trung đoàn trưởng của Trung đoàn Thiết giáp 11 (11 ACR), trung đoàn kỵ binh đầy đủ duy nhất ở miền Nam Việt Nam. Khi Tướng Abrams đề cập đến mối quan tâm của quân đội đối với phương tiện mới, Patton khuyến nghị Sheridans nên được thử nghiệm chiến đấu bởi một sư đoàn thiết giáp kỵ cũng như một đội từ trung đoàn của ông ta; vì các đội có các nhiệm vụ hoàn toàn khác nhau. và Hải đội 1 của Sư đoàn 11 ACR., và chúng ở lại chiến trường cho đến khi đơn vị kỵ binh bọc thép cuối cùng của Hoa Kỳ, Phi đội 1, Trung đoàn 1 Kỵ binh chuẩn bị tái triển khai trở lại Hoa Kỳ vào ngày 10 tháng 4 năm 1972. Sau cuối trận mở màn năm 1972, xe Sheridan đã có nhiều hành động trong Chiến tranh Việt Nam, được giao cho gần như tất cả các đội kỵ binh thiết giáp tham gia cuộc chiến. Năm 1969, các đơn vị kỵ binh bọc thép (trừ ACR 11, vẫn giữ lại các đại đội xe tăng M48) bắt đầu thay thế các xe tăng M48 Patton của họ, đến lượt nó được chuyển giao cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Giống như xe chống tăng M50 Ontos, các báo cáo chiến đấu từ quân đội đôi khi tâng bốc, trong khi các báo cáo cấp cao hơn trong chuỗi chỉ huy thường là tiêu cực. Điều này phần lớn là do tỷ lệ thương vong cao của cả Sheridan và kíp lái: trong khi mìn và súng phóng lựu (RPG) chỉ gây sát thương cho xe tăng M48 Patton, chúng sẽ phá hủy Sheridan và giết chết hoặc làm bị thương hầu hết, nếu không phải tất cả kíp lái (do Sheridan có vỏ giáp mỏng hơn M48 rất nhiều)
Một đánh giá năm 1969 của các phương tiện phát hiện ra rằng M551 được sử dụng trong trinh sát, tuần tra đêm và dọn dẹp đường phố, tích lũy 39.455 dặm đường và 520 nhiệm vụ chiến đấu, với một tốc độ sẵn sàng của 81,3 phần trăm. Mặc dù có điểm yếu đối với tên lửa và mìn, nó được đánh giá là xứng đáng để áp dụng các sửa đổi và trang bị cho tất cả các đội kỵ binh.
Sheridan có một số ưu điểm: nó không thường xuyên bị mắc kẹt trong bùn như xe tăng M48 Patton nặng 52 tấn, cũng như không thường đứt xích. Chỉ riêng điều này đã đủ để giành được sự ưu ái của các đội xe tăng. Trọng lượng nhẹ và tính cơ động cao đã chứng tỏ giá trị của chúng, và khẩu súng đã chứng tỏ là một vũ khí chống người hiệu quả khi được sử dụng với đạn M657 HE hoặc đạn M625, vốn sử dụng hàng nghìn viên đạn nhỏ. trái|nhỏ|Kíp lái và một chiếc M551 Sheridan thuộc Chi đội 3,Thiết Kỵ đoàn số 4 trên chiến trường Việt Nam Tuy nhiên, độ tin cậy của hệ thống động cơ và pháo của xe tăng không hoàn toàn đáp ứng được nhiệm vụ. Trong số 74 chiếc M551 được đưa đến Việt Nam vào tháng 2 năm 1969, tính đến tháng 5 đã có 16 lỗi cơ khí nghiêm trọng, 41 lần bị bắn hỏng, 140 đạn dược bị lỗi và 25 động cơ bị cháy; bản thân tháp pháo có 125 lỗi điện, một số lỗi hệ thống giật và các trường hợp pháo nổ. Thêm một vấn đề nữa, phần lớn đạn súng máy mang theo phải được cất giữ bên ngoài tháp pháo vì không gian bên trong cực kỳ hạn chế.
Mặc dù trung bình một kíp lái M48 Patton có thể bắn tới 17 quả đạn pháo 90mm trong một "phút điên cuồng" (60 giây với lệnh khai hỏa của tất cả các loại súng), Sheridan được biết là chỉ bắn ra hai quả đạn 152mm trong cùng một khung thời gian. Trong khi khẩu pháo 90mm của M48 bắn các loại đạn có vỏ bọc kim loại cố định, thì pháo 152mm lại không có đạn. Các viên đạn không có tiền mặt cần có lỗ thông hơi để làm sạch ống súng và khóa nòng trước khi nạp một viên đạn khác, trong khi khối khóa nòng M48 mở ra khi quả đạn đã sử dụng được đẩy ra và đóng lại khi quả đạn mới được nhét vào. Người nạp đạn càng nhanh, Patton khai hỏa càng nhanh. Còn đối với Sheridan, người nạp đạn phải đợi cơ chế: Sau khi bắn, khóa nòng từ từ mở ra phía sau rồi quay xuống phía dưới, sau khi một công cụ khác chỉ ra rằng tất cả các hệ thống tháp pháo vẫn hoạt động.
Sheridan được đánh giá cao bởi bộ binh, những đơn vị khao khát được hỗ trợ hỏa lực trực tiếp, và thường phục vụ trong các đơn vị kỵ binh thiết giáp cùng với ACAV (M113). Các đơn vị thiết giáp chỉ gồm xe tăng (trừ đại đội sở chỉ huy) và các đơn vị bộ binh cơ giới chỉ gồm M113. Trong vai trò này, vấn đề thực sự với Sheridan là tải trọng đạn dược hạn chế của nó; thông thường, chỉ có 20 viên đạn và 8 tên lửa. Mặc dù vậy, những chiếc M551 trong biên chế Việt Nam Cộng hòa không được trang bị tên lửa hoặc thiết bị dẫn đường, điều này đã làm tăng tải trọng cơ bản của các loại đạn thông thường. Tổn thất của Sheridan rất nặng nề trong các hoạt động bình thường, phần lớn là do mìn và vũ khí chống thiết giáp, nhưng đặc biệt nặng nề sau khi bắt đầu Chiến dịch Campuchia vào ngày 1 tháng 5 năm 1970 trong số các đội thiết giáp kỵ binh, chiếc ACR thứ 11 đã được đưa vào cuộc chiến. Tổn thất nặng nề thứ hai là trong cuộc tấn công cuối cùng của Quân đội Hoa Kỳ trong cuộc chiến là trong chiến dịch Dewey Canyon II, khi đội Sheridan còn lại của Thiết giáp Kỵ gặp thảm họa xảy ra ở biên giới Lào trong những tháng đầu năm 1971, đặc biệt là Sư đoàn 1 Kỵ binh.
Centurion
nhỏ|Kíp lái của một chiếc Centurion Úc nói chuyện với bộ binh trong một chiến dịch ở miền Nam Việt Nam trong năm 1968 Năm 1967, Phân đội Thiết giáp chở quân số 1 (APC) của Quân đoàn Thiết giáp Hoàng gia Úc được chuyển giao cho Phân đội "A", Trung đoàn Kỵ binh 3 tại miền Nam Việt Nam. Mặc dù họ đã tiến hành thành công các hoạt động chiến đấu trong khu vực hoạt động của mình, các báo cáo từ thực địa cho biết rằng các xe thiết giáp chở quân hạng nhẹ M113A1 của họ không thể vượt qua rừng rậm, hạn chế các hành động tấn công của họ chống lại lực lượng đối phương. Chính phủ Úc, dưới sự chỉ trích của Quốc hội, đã quyết định gửi một phi đội xe tăng Centurion của Úc đến miền Nam Việt Nam. Úc thuộc Phân đội 'C', Trung đoàn thiết giáp số 1 đổ bộ vào miền Nam Việt Nam ngày 24 tháng 2 năm 1968, đặt trụ sở tại Núi Đất thuộc Quân đoàn III (MR3).
Đại tá Donald Dunstan, sau đó là thống đốc của bang Nam Úc, là phó chỉ huy lực lượng đặc nhiệm Task Force 1 (1 ATF) của Úc ở miền Nam Việt Nam. Dunstan đã có thể hoàn toàn phương án tác chiến sử dụng kết hợp xe tăng và bộ binh của Úc trong Chiến tranh thế giới thứ hai(như một phần của chiến dịch Bougainville), và là hoạt động đầu tiên kể từ sau chiến tranh để chỉ huy xe tăng và bộ binh của Úc tham chiến. Khi tạm thời nắm quyền chỉ huy trong thời gian Chuẩn tướng Ronald Hughes vắng mặt, ông chỉ đạo rằng các xe Centurion được đưa lên từ Núi Đất để củng cố các căn cứ hỏa lực Coral và Balmoral, tin rằng chúng là một yếu tố quan trọng đã không được sử dụng. Ngoài việc bổ sung một lượng lớn hỏa lực, Dunstan nói, ông ta "không thể thấy bất kỳ lý do gì tại sao chúng (các xe Centurion) không nên ở đó". Tầm nhìn xa của ông đã giúp lực lượng đặc nhiệm số 1 tiêu diệt khoảng 267 binh sĩ thuộc Trung đoàn 141 và 165 của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Trận chiến Coral – Balmoral kéo dài sáu tuần vào tháng 5 năm 1968, cũng như bắt giữ 11 tù nhân, 36 vũ khí phục vụ cho phi hành đoàn, 112 vũ khí nhỏ và các loại vũ khí khác của đối phương.
Ngày 5/8/1967, Bộ Tư lệnh Thiết giáp được lệnh sử dụng 2 đại đội xe tăng vào Nam chiến đấu. Đảng uỷ - Bộ Tư lệnh thiết giáp đã quyết định chọn 2 đại đội PT-76 (đại đội 3 và đại đội 9) của Trung đoàn xe tăng 203 thực hiện nhiệm vụ này, 2 đại đội được tổ chức thành một tiểu đoàn thiếu, mang phiên hiệu 198. Sau thời gian làm công tác chuẩn bị, ngày 1/10/1967, từ căn cứ ở Lương Sơn, Hòa Bình, tiểu đoàn 198 bắt đầu hành quân vào chiến trường, vượt 1.350 km theo Đường mòn Hồ Chí Minh dưới các cuộc không kích liên tụ