là Thiên hoàng thứ 77 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại của ông kéo dài từ năm 1155 đến năm 1158.
Tường thuật truyền thống
Trước khi lên ngôi, ông có tên cá nhân (imina) là Masahito -shinnō (雅仁親王).
Ông là con trai thứ tư của Thiên hoàng Toba Mẹ của ông là Shoko (璋子), con gái của Fujiwara Kinzane.
Lên ngôi Thiên hoàng
22 Tháng 8 năm 1155 (Kyūju 2, ngày thứ 23 của tháng thứ 7): Thiên hoàng Konoe đột ngột băng hà mà không để lại người thừa kế. Ngay sau đó, cha ông là Pháp hoàng Toba cử anh trai ông là thân vương Masahito ra lãnh chiếu kế vị.
Ngày 23 tháng 8 năm 1155 (Kyūju 2, ngày 24 tháng 7): Trong năm thứ 14 của triều đại, Thiên hoàng Konoe chính thức băng hà. Theo lệnh của cha, thân vương Masahito lên ngôi (sokui), lấy hiệu là Thiên hoàng Go-Shirakawa. Ông tiếp tục dùng niên hiệu của em trai là Kyūju (1155-1156).
Go-Shirakawa lên ngôi trong tình cảnh nội bộ nước Nhật chia năm xẻ bảy giữa các phe phái; một phe ủng hộ cựu Thiên hoàng Sutoku trở lại ngôi vua, phe còn lại ủng hộ tân Thiên hoàng mới kế vị. Để củng cố ngôi vua, Thiên hoàng cố gắng làm giảm ảnh hưởng của gia tộc Fujiwara và tăng sức mạnh của các samurai và các dòng họ khác như Taira, Minamoto. Do chính sách này của ông nên Taira no Kiyomori giành được quyền lực và công khai đối phó với các dòng họ khác, nhất là dòng họ luôn ủng hộ cựu Thiên hoàng Sutoku phục vị. Nhưng có lẽ do ưu tiên quá nhiều cho các quý tộc dùng samurai để ổn định trật tự quốc gia nên Go-Shirakawa vô tình thúc đẩy tầng lớp võ sĩ bành trướng thế lực, dẫn tới thành lập Mạc phủ Kamakura - chính quyền của giới quân sự ở Nhật Bản phong kiến (1185).
Đồng thời, chính sách của Go-Shirakawa làm mâu thuẫn giữa các phe ngày càng gay gắt. Phe Thượng hoàng Sutoku vì muốn cho con trai của Thượng hoàng lên kế vị đã kéo quân do các tướng của họ Taira và Minamoto (Tameyoshi, Tametomo) tấn công phe Thiên hoàng. Cuộc tiến công giữa hai phe Thượng hoàng và Thiên hoàng nhằm xác lập quyền lực của hai vị vua được gọi là loạn Hōgen (7/1156, loạn năm Bảo Nguyên). Hai phe tấn công nhau trong nhiều tháng trời, kết quả là phe của Thiên hoàng được sự giúp đỡ của các võ sĩ trẻ do Minamoto Yoshitomo và Taira Kyomori chỉ huy giành thắng lợi. Thượng hoàng bị đi đày, phe của Thượng hoàng tan tác sau khi thua trận: người bị giết, người bị đi đày, sở lãnh bị tịch thu. Khi Tameyoshi quy hàng Thiên hoàng, Go-Shirakawa yêu cầu con trai của ông ta là phải hành quyết cha, các em trai và cả các cháu hãy còn thơ ấu. Một người em dâu đã tự sát theo cả nhà sau đó. Đó là chuyện đã ghi lại trong Hogen Monogatari.
Sau cuộc loạn Hogen, Go-Shirakawa tiếp tục cai trị Nhật Bản. Nhưng họ Taira và Minamoto sau khi thắng lợi trong cuộc loạn Hogen đã đối đấu với nhau quyết liệt. Fujiwara no Michinori pháp danh Shinzei (Tín Tây) - người câu kết với Taira Kiyomori -lại làm mất lòng một cận thần khác cùng họ Fujiwara là Nobuyori. Ông Fujiwara thứ hai này kết đảng với Minamoto no Yoshitomo và mâu thuẫn với nhau gay gắt, cho đến khi Thiên hoàng thoái vị vẫn chưa xong.
Tháng 12/1158, Thiên hoàng Go-Shirakawa thoái vị, nhường ngôi cho con trai là thân vương Morihito. Ông này sẽ lên ngôi, lấy hiệu là Thiên hoàng Nijō.
Thoái vị
Sau khi thoái vị, Go-Shirakawa lên làm Thượng hoàng và tiếp tục chính sách Viện chính của các Thượng hoàng tiền nhiệm. Do có công bảo vệ Thiên hoàng trong cuộc loạn Hōgen (1156), Taira no Kiyomori được Thượng hoàng ban thưởng và có ân sủng đặc biệt. Với chính sách thúc đẩy mậu dịch Nhật - Tống được kế thừa từ cha mình là Taira no Tadamori, Taira Kiyomori được Thượng hoàng cho phép xây một bến đỗ cho tàu thuyền mang tên Owada no tomari (Đại Luân Điền bạc) ở Settsu (nay là thành phố Kobe), lại tìm cách bảo vệ an ninh trên biển nội địa Seto giúp thương nhân Tống có thể di chuyển vào tận vùng Kinai chung quanh kinh đô, làm cho việc trao đổi hàng hóa được dễ dàng.
Nhưng dòng họ Taira lại có tham vọng muốn chiếm lấy quyền lực của Hoàng gia nên giữa họ và Thượng hoàng có rạn nứt sâu sắc. Năm 1159 (niên hiệu Heiji nguyên niên của Thiên hoàng Nijō), lợi dụng lúc Taira no Kiyomori đi vắng (ông ta đến vùng Kumano), phe nổi loạn do Minamoto no Yoshitomo và Fujiwara Nobuyori tấn công cung đình, bắt giam Thiên hoàng và Thượng hoàng, tự phong chức tước. Nhưng ngay sau đó Taira Kiyomori biết tin, ông bí mật trở về cứu hai vua rồi tấn công nói cùng của phe nổi loạn vào đầu năm 1160. Yoshitomo thua trận và bị một bộ hạ cũ ám sát trên đường bôn đào ở Iwari, con trai ông là Yoritomo bị lưu đày ở Izu. Trận binh biến này được gọi là Heiji no ran (Loạn năm Bình Trị, 1159 - 1160)
Năm 1169, Go-Shirakawa xuất gia và trở thành Pháp hoàng, lấy pháp danh là Gyōshin.
Sự thao túng quyền lực của dòng họ Taira làm các quý tộc thuộc phe ủng họ Pháp hoàng và nhất là Pháp hoàng Go-Shirakawa bất mãn. Năm 1177 (Jishō nguyên niên), Pháp hoàng Go-Shirakawa lệnh cho các cận thần Taira no Tadamori, tăng Shunkan họp nhau ở Shishigatani (Sư tử cốc) vùng ngoại ô Kyôto mưu toan đánh đổ họ Taira để giành lại quyền lực cho Pháp hoàng. Sử chép đó là Shishitani no inbō (Âm mưu ở Shishinotani). Chuyện bại lộ, năm 1179, Kiyomori bèn thẳng tay đàn áp. Ông giam lỏng Pháp hoàng và xử phạt tạt cả các quan lại đã nhúng vào việc đó, cả các quý tộc từ chức kampaku (Nhiếp chính) trở xuống.
Sau loạn Heiji, dòng họ Taira trở thành thế lực chính trị và quân sự mạnh nhất Nhật Bản. Năm 1177, ông ta buộc Pháp hoàng phải phong chức Thái chính đại thần, đứng đầu trăm quan và có quyền hành rất lớn. Con gái của ông ta được gả cho Thiên hoàng Takakura và bà này hạ sinh một hoàng tử là Tokihito, sau này là Thiên hoàng Antoku.
Không cam tâm thất bại, Pháp hoàng Go-Shirakawa lại lên một kế hoạch để giành lại quyền lực cho mình. Ông tuyên bố dòng họ Taira như là kẻ thù của triều đình và yêu cầu họ Minamoto phải gây chiến với Taira. Năm 1180, Mochihito và Minamoto no Yorimasa bắt đầu cuộc nổi dậy đầu tiên, nhưng bị thất bại. Tuy nhiên, hai ông cũng lôi kéo phần lớn các võ sĩ bất mãn với họ Taira theo mình. Năm 1181, Kiyomori chết và sự suy giảm của Taira đã bắt đầu. Lợi dụng thời cơ, quân đội của dòng họ Minamoto đã tấn công Taira. Sau cuộc đấu tranh nội bộ trong gia tộc Minamoto, Minamoto no Yoshitsune, một người anh em của Yoritomo cuối cùng đã tiêu diệt hoàn toàn gia tộc Taira vào năm 1185 tại Trận Dan no Ura.
Sau trận chiến Dan no Ura, Minamoto no Yoshitsune theo Pháp hoàng và công khai chống lại anh trai mình, Minamoto no Yoritomo. Về sau, ông ta (Yoshitsune) bị phản bội và bị giết chết, đồng thời thành trì của cựu dòng họ quý tộc Fujiwara bị thủ tiêu trong cuộc chiến. Điều này đánh dấu sự biến mất khỏi vũ đài chính trị của họ Fujiwara, đưa dòng họ Minamoto lên cầm quyền. Để xóa bỏ các nghi kỵ vốn có giữa các dòng họ với Pháp hoàng, Go-Shirakawa và tộc trưởng họ Minamoto là Minamoto no Yoritomo hòa giải, ông cũng cho phép Yoritomo sau này có thể tìm thấy một tướng quân mới kế nhiệm.
Tháng 4/1192, Pháp hoàng Go-Shirakawa qua đời ở tuổi 66. Ông là cha của Thiên hoàng kế nhiệm: Thiên hoàng Nijō, Thiên hoàng Takakura; ông nội của Thiên hoàng Rokujō, Thiên hoàng Antoku và Thiên hoàng Go-Toba.
Kugyō
- Kampaku, Fujiwara Tadamichi, 1099-1164.
- Daijō daijin, Sanjō Saneyuki, 1079-1162.
- Tả đại thần, Fujiwara Yorinaga, 1120-1156.
- hữu đại thần
- Nadaijin
- đại nạp ngôn
Niên hiệu
- Kyūju (1155-1156)
- Hōgen (1156-1158)
Gia đình
- Empress (chūgū): Tokudaiji (Fujiwara) ??
- Consort (Shinno-hi): Minamoto (?) Atsushiko (源懿子). Bà sinh ra Hoàng tử Morihito (守仁親王) (Thiên hoàng Nijō)
- Tòa Lady: (?) Sanjō (Fujiwara) Soko (三条 (藤原) 琮 子)
- Tòa Lady: Taira no Shigeko (平滋子), sinh ra Hoàng tử Norihito (憲仁親王) (Thiên hoàng Takakura)
- Consort: Fujiwara Naruko ?? (藤原 成 子), sinh ra Hoàng tử Mochihito (以仁王)
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là Thiên hoàng thứ 77 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại của ông kéo dài từ năm 1155 đến năm 1158. ## Tường thuật truyền thống Trước khi lên
là vị Thiên hoàng thứ 82 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông ở ngôi từ năm 1183 đến năm 1198. Thụy hiệu của vị Thiên hoàng ở thế kỷ XII
là Thiên hoàng thứ 71 của Nhật Bản. Tên thật của ông là **Takahito** (**尊仁**(Tôn Nhân) / たかひと). ## Tường thuật truyền thống Trước khi lên ngôi Thiên hoàng, ông có tên thật là là
là Thiên hoàng thứ 100 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Ông trị vì hai lần: lần thứ nhất từ năm 1382 đến năm 1392 dưới danh nghĩa Bắc triều; lần
thumb|[[Akihito|Thiên hoàng Akihito - vị Thái thượng Thiên hoàng thứ 60 của Nhật Bản.]] , gọi tắt là , là tôn hiệu Thái thượng hoàng của các Thiên hoàng - những vị quân chủ Nhật
là thiên hoàng thứ 74 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại Toba của kéo dài từ năm 1107 đến năm 1123. ## Tường thuật truyền thống Thiên hoàng Toba
**Thiên hoàng Sutoku** (崇徳 Sutoku- Tenno ?, 07 tháng 7 năm 1119 - 14 tháng 9 năm 1164) là Thiên hoàng thứ 75 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại
**Nijō** (二条天皇Nijō-tennō) (ngày 31 tháng 7 năm 1143 - ngày 05 tháng 9 năm 1165) là Thiên hoàng thứ 78 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại của ông kéo
**Konoe** (近衛 Konoe - tennō ?, 16 tháng 6 năm 1139 - 22 tháng 8 năm 1155) là Thiên hoàng thứ 76 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của
, là vị Thiên hoàng thứ 72 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Biệt xưng **Lục Điều Đế** (六条帝). Triều đại của Bạch Hà của kéo dài từ 1073 đến 1087
**Thiên hoàng Takakura** (高倉天皇Takakura-tennō) (20 tháng 9 năm 1161 - 30 tháng 1 năm 1181) là Thiên hoàng thứ 80 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống.Triều đại của ông kéo dài
là thiên hoàng thứ 73 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của Horikawa kéo dài từ năm 1087 đến năm 1107. ## Tường thuật truyền thống Trước khi lên
**Thiên hoàng Rokujō** (六条天皇Rokujō-Tenno) (28 tháng 12 năm 1164 - ngày 23 tháng 8 năm 1176) là Thiên hoàng thứ 79 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều đại của ông
, còn được gọi là là một nữ hoàng của Thiên hoàng Go-Nijō. Cô ấy là con gái lớn của Daijō daijin Tokudaiji Kintaka. Mẹ cô là , con gái thứ ba của Naidaijin Sanjō
thumb|[[Thiên hoàng Uda - vị Pháp hoàng đầu tiên.]] **Thái thượng Pháp hoàng** (chữ Hán: 太上法皇; Kana: だじょうほうおうDajō Hō-ō) là một danh hiệu của Thái thượng Thiên hoàng sau khi vị Thái thượng Thiên hoàng
**Vô thượng hoàng** (chữ Hán: 無上皇) là một danh hiệu được chế định vào thời Bắc Tề, dùng như một danh hiệu cao quý hơn Thái thượng hoàng. Về ý nghĩa, danh hiệu này là
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Nhật Bản, trong đó có Vương quốc Lưu Cầu: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
,hay , là chính thất của Thiên hoàng Toba, mẹ của 2 vị Thiên hoàng là Thiên hoàng Sutoku và Thiên hoàng Go-Shirakawa. Bà là trưởng nữ của . ## Cuộc sống Thân phụ của
**Gia tộc Minamoto** (**源** / みなもと) là một dòng họ Hoàng tộc đặc biệt danh giá của người Nhật, được Thiên hoàng ban cho những người con và cháu thuộc Hoàng tộc không được kế
, còn được gọi là , là một vị chính phối của Thiên hoàng Toba và là mẹ của Thiên hoàng Konoe. Bà là con gái của _Trung Nạp ngôn_ và . ## Cuộc sống
, còn được gọi là , là con gái của Thái chính đại thần Taira no Kiyomori, và là hoàng hậu của Thiên hoàng Takakura. Bà được biết đến là người sống sót cuối cùng
hay còn được gọi **Loạn Hōgen**, **Bảo Nguyên Loạn**, là một cuộc nội chiến ngắn ngủi nhưng quan trọng ở Nhật Bản, chủ yếu xoay quanh việc kế vị ngai vàng Nhật Bản. Tranh chấp
do cuộc nội chiến diễn ra vào năm 1160 tương ứng với niên hiệu _Heiji_ (平治 Bình Trị) nên còn được gọi **Loạn Heiji**, **Bình Trị Loạn**. Cuộc nội chiến ngắn giữa các phe đối
nhỏ|260x260px|Một bức tranh mô tả chi tiết các cảnh trong _Bình gia truyện._ là một tác phẩm văn học thuộc thể loại sử thi của Nhật Bản được sáng tác vào khoảng năm 1330, nói
là cuộc chiến giữa hai gia tộc Taira và Minamoto vào cuối thời kỳ Heian của Nhật Bản. Chiến tranh kết thúc với sự thất bại của gia tộc Taira và sự thành lập của
(9 tháng 5 năm 1147 - 9 tháng 2 năm 1199) là vị tướng thiết lập chế độ Mạc phủ, sáng lập "nền chính trị võ gia", khởi xướng truyền thống "thực quyền thuộc kẻ
* Đông Tam Điều viện (Higashi-sanjō In (東三条院): tức Fujiwara no _Senshi_ (藤原詮子) - phối ngẫu của Thiên hoàng En'yū * Thượng Đông Môn viện (Jōtō-mon In (上東門院): tức Fujiwara no _Shōshi_ (藤原彰子) (988-1074) -
Đây là một danh sách các** gia tộc** của **Nhật Bản**. Các gia tộc cổ đại (gozoku) đề cập đến trong _Nihonshoki_ và _Kojiki_ bị mất quyền lực chính trị của họ vào trước thời
là _shikken_ (quan chấp chính) thứ hai thuộc tộc Hōjō của Mạc phủ Kamakura và cũng là người đứng đầu tộc Hōjō. Ông ấy là đứa con trai thứ hai của Hōjō Tokimasa. Ông trở
là tộc trưởng của gia tộc Minamoto và là một vị tướng vào cuối thời Heian trong lịch sử Nhật Bản. Con trai ông, Minamoto no Yoritomo trở thành Shogun và người sáng lập Mạc
**Cuộc vây hãm Hōjūjidono** năm 1184 là một phần của Chiến tranh Genpei Nhật Bản, và là một nhân tố quyết định trong cuộc giao chiến giữa Minamoto no Yoshinaka và những người anh em
là một hoàng nữ, con gái của Thiên hoàng Go-Sanjō và là hoàng hậu _(chūgū)_ của Thiên hoàng Horikawa. ## Đời sống Tokushi là con gái thứ tư của Thiên hoàng Go-Sanjō và Fujiwara Shigeko,
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
, còn được biết đến với tên hiệu là Hoàng hậu của Thiên hoàng Go-Reizei. Tên húy của bà còn có thể được đọc là **_Yoshiko_**. ## Tiểu sử ### Đầu đời Hoàng hậu Kanshi
**Quan chế Mạc phủ Nhật Bản** được tính từ khi Shogun Minamoto no Yoritomo (源頼朝 _Nguyên Lại Triều_) thiết lập quan chế Mạc phủ cho đến khi Minh Trị xóa bỏ chế độ Mạc phủ.
Ngày **5 tháng 9** là ngày thứ 248 (249 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 117 ngày trong năm. ## Sự kiện *917 – Tiết độ sứ Lưu Nham lên ngôi hoàng đế ở
nhỏ|trái|Tranh khắc gỗ về trận Awazu, của Utagawa Toyoharu, khoảng những năm 1760. Cái chết của Yoshinaka va Kanehira được vẽ ở phía xa bên trái. Minamoto no Yoshinaka chỉ còn căn cứ cuối cùng
**Trận Uji lần thứ hai** hay còn gọi là **sông Ninzhi hợp chiến** là một trận giao tranh trong cuộc chiến tranh Nguyên-Bình. Bối cảnh khi Minamoto no Yoshinaka cố giành quyền lực từ tay
là một nữ chính khách, và là con gái cả của Hōjō Tokimasa (người đầu tiên giữ chức vụ nhiếp chính của Mạc phủ Kamakura) với vợ là Hōjō no Maki. Bà là em gái
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
Tập tin:Taira no Kiyomori.jpg là một vị tướng vào cuối thời Heian của Nhật Bản. Ông thiết lập nên chính quyền hành chính do samurai thống trị đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản. Sau
là vị quan nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Dưới sự lãnh đạo của ông, gia tộc Fujiwara đã nắm quyền kiểm soát nền chính trị đất nước trong một thời gian dài. ##
**Thời kỳ Heian** (, _Heian-jidai_, âm Hán Việt: Bình An thời đại) là thời kì phân hóa cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản cổ đại, kéo dài từ năm 794 đến 1185. Đây là
tên khác là **Taira no Nakako** là nhà thơ _waka_ Nhật Bản sống vào hậu bán thế kỉ 11 thuộc cuối thời kỳ Heian. Một trong những bài thơ của bà nằm trong tập thơ
nhỏ|"Yoshitsune và Benkei ngắm hoa anh đào nở", của [[Yoshitoshi|Yoshitoshi Tsukioka]] **Minamoto no Yoshitsune** (tiếng Nhật: 源 義経, **_Nguyên Nghĩa Kinh_** hay còn gọi là **Nguyên Cửu Lang Nghĩa Kinh**, chữ _Tsune_ có nghĩa là
, hay **Tiểu thư Shizuka**, một trong những người phụ nữ nổi tiếng nhất trong lịch sử và văn học Nhật Bản, là một (vũ công triều đình) của thế kỷ 12 và là một
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo