Nguyễn Đức Thìn (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1940) là một nhà giáo Việt Nam, người khởi xướng phong trào Nghìn việc tốt từ năm 1963. Phải chống chọi với bệnh phong cùi, ông không chỉ trở thành hiệu trưởng ngôi trường đầu tiên tại trại phong mà còn tiếp tục sự nghiệp giáo dục cho đến ngoài 80 tuổi. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và Anh hùng Lao động vào những năm 1980. Sau khi về hưu, ông tiếp tục công việc sáng tác thơ, viết sách về lịch sử địa phương và là trưởng ban hướng dẫn viên tại khu di tích lịch sử Đền Đô. Ông cũng là tác giả của nhiều bức ảnh nổi tiếng về khu di tích này.
Cuộc đời
Đầu đời
Nguyễn Đức Thìn sinh năm 1940 tại làng Đình Bảng (nay là phường Đình Bảng thuộc thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông tham gia lực lượng du kích ở Đình Bảng từ năm 11 tuổi và đã trở thành đội viên Đội du kích thiếu niên Đình Bảng. Đây là lực lượng du kích được thành lập từ tháng 11 năm 1949 tại Đình Bảng, nơi được xem là một "địa chỉ đỏ" của cách mạng Việt Nam vào thời điểm thực dân Pháp xâm lược. Cậu thiếu niên Nguyễn Đức Thìn lúc bấy giờ chịu trách nhiệm theo dõi việc di chuyển của quân Pháp, số lượng xe và lính đi về hằng ngày, và chụp ảnh những khu vực cần thiết. Khoảng những năm 1960, nhà văn Xuân Sách đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết cùng tên về Đội du kích thiếu niên Đình Bảng. Đội du kích thiếu niên này đã được nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc tặng cờ "Thiếu niên dũng cảm" và Liên đoàn Thanh niên Dân chủ thế giới tặng cờ "Tuổi trẻ vì hòa bình". Đến năm 2009, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã ký quyết định trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Năm ông 15 tuổi, cha ông qua đời sau một thời gian dài đau buồn vì em trai bị xử bắn. Mẹ ông cũng bỏ làng đi biệt xứ, sau qua đời ở Cai Lậy, Tiền Giang. Mặc dù chỉ học hết lớp 7, nhưng ông đã tiếp tục tự học và trở thành giáo viên trường làng vào năm 18 tuổi. Trong thời gian đi dạy, ông tranh thủ thời gian rảnh để học Trung cấp Sư phạm, sau khi hoàn thành việc học thì ông được phân công giảng dạy môn Văn và Lịch sử tại trường cấp 2 Liên Sơn (nay là Trường Trung học cơ sở Tam Sơn thuộc Từ Sơn, Bắc Ninh) từ táng 6 năm 1961.
Nhà giáo và căn bệnh phong
Ngày 24 tháng 3 năm 1963, phong trào "Thi đua làm nghìn việc tốt, thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy, giành danh hiệu Cháu ngoan Bác Hồ", gọi tắt là phong trào "Nghìn việc tốt" được phát động tại Trường Liên Sơn, bắt nguồn từ sáng kiến của thầy giáo Nguyễn Đức Thìn lúc bấy giờ là Tổng phụ trách đội của trường. Chỉ trong thời gian ngắn, phong trào đã lan rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam và được nhiều học sinh nhiệt tình hưởng ứng. Đến những năm 1970, phong trào này đã được nhân rộng ra khắp Việt Nam cũng như được nhiều quốc gia khác học hỏi kinh nghiệm. Việc phát động phong trào Nghìn việc tốt của thầy Nguyễn Văn Thìn đã được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận xác lập kỷ lục vào tháng 10 năm 2012. Đang trong giai đoạn dốc lòng cho sự nghiệp giáo dục, ông mắc bệnh phong khi chỉ mới 30 tuổi, phải vào Trại phong Quỳnh Lập (hay Bệnh viện da liễu Quỳnh Lập) để điều trị. Lúc bấy giờ, ông đang là giáo viên kiêm Ủy viên thường vụ Trung ương Đoàn của trường và Ủy viên thường vụ Huyện đoàn Tiên Sơn. Trong 4 năm ở trại phong, ông được bầu làm Bí thư Chi bộ. Vốn là một nhà giáo, khi phát hiện vấn đề hơn 100 trẻ em là con em bệnh nhân ở khu điều trị bị tách biệt khỏi cộng đồng, ông đã nảy ra ý tưởng mở trường bên bờ biển. Trong thời gian điều trị tại Quỳnh Lập, ông từng đại diện người bệnh tham gia Hội nghị Khoa học và nhân đạo về bệnh phong do Bộ Y tế tổ chức.
Sau 4 năm điều trị, ông quay lại trường cũ để tiếp tục công tác. Trong thời gian giảng dạy, ông đã có hơn 30 sáng kiến, đề tài khoa học các cấp, trong đó có 4 đề tài được tặng Bằng khen và Huy hiệu Lao động sáng tạo của Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), trong đó 3 đề tài được cấp bằng Lao động sáng tạo là "Nghìn việc tốt", "Thắp sáng ngòn đèn Ngô Gia Tự" và "Tổ chức học sinh hoạt động sử học". Năm 1985, ông được trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động vì đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong giáo dục, trong đó bao gồm trở thành một nhà khoa học giáo dục dù không được đào tạo bài bản, vẫn tổ chức các lớp học bên bờ biển dù đang phải điều trị trong trại phong, và là tác giả cuộc phong trào Nghìn việc tốt. Đến năm 1988, ông tiếp tục được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Ông là Ủy viên Ban quản lý Di tích Đền Đô và tiếp tục làm hướng dẫn viên tại đền cho đến năm 2015. Là chịu trách nhiệm trông coi ngôi đền, ông được người dân địa phương gọi với những cái tên như "Ông từ Đền Đô" hay "Hiệp sĩ Đền Đô". Ông cũng là tác giả của nhiều bức ảnh nổi tiếng về khu di tích này. về sau thường được biết đến với cái tên "Bát đế vân du" hay "Lý bát đế hiển linh". Đến nay, bức ảnh này được đóng khung và treo trong chính điện của đền.
Chỉ chưa đầy một tuần sau, sáng ngày 1 tháng 9 năm 1998, người dân địa phương Đình Bảng chuẩn bị lễ rước kiệu từ Đền Đô về Hà Nội phục vụ cho chương trình chào mừng Sài Gòn tròn 300 tuổi. Trong lúc lễ dâng hương lên các vị vua đang diễn ra, bầu trời bất ngờ xuất hiện dải sáng màu vàng và đám mây có hình tương tự rồng đang bay về hướng Hà Nội. Người "nhiếp ảnh làng" Nguyễn Văn Thìn đã nhanh tay chụp lại khoảnh khắc này và bức ảnh "Hoàng long vân giáng thế" ra đời.
Nhà văn và sự nghiệp nghiên cứu lịch sử
Chịu ảnh hưởng bởi bệnh phong, bàn tay của ông đã gần như không còn cảm giác, không xòe ra được nữa. Nhưng ông vẫn sử dụng máy tính để tiếp tục công việc sáng tác, viết thơ văn và sách báo. Ông đã viết và in hơn 3000 trang sách và hàng trăm bài báo, trong đó có cuốn tự truyện "Chuyện cuộc đời", tập thơ "Bình minh đến sớm", và tuyển tập "Nghìn việc tốt – chuyện kể ở Tam Sơn". Năm 2012, ông xuất bản tập thơ "Bình minh đến sớm", tổng hợp nhiều bài thơ ông đã sáng tác từ khi còn điều trị trong trại phong. Để chống chọi với nổi đau do bệnh tật mang đến, ông tìm được niềm vui của mình là làm thơ. Nhiều người ví ông như một Hàn Mặc Tử thứ hai. Ông sáng tác rất nhiều bài thơ, trong đó có một bài đã được nhạc sĩ Mai Kiên phổ nhạc. ông còn là Chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ Đền Đô.
Trong suốt những năm làm việc tại Đền Đô, ông đã sưu tầm nhiều hiện vật, tư liệu phục vụ cho việc quản lý, bảo tồn khu di tích cũng như các tư liệu lịch sử về các vị vua nhà Lý. Ông là tác giả của cuốn sách "Di tích lịch sử văn hóa đền Đô" dày hơn 300 trang và các tác phẩm khác về lịch sử Đình Bảng, cũng như nhiều bức ảnh nổi tiếng tại khu di tích Đền Đô. Ngoài ra, ông còn cho ra mắt 13 tác phẩm viết về lịch sử văn hóa Đền Đô, Đình Bảng và nhà Lý.
Tác phẩm
Sách
Tập thơ
- Bình minh đến sớm (2012)
- Cảm hứng quê (2022)
- Chích bông không ngủ trưa
- Hẹn gặp ở Đền Đô (tập thơ văn, 2019)
- Hoa của Đất
- Hoa Hướng Dương (2020)
- Hướng nhìn Thăng Long (2020)
- Lục bát Đất rồng thiêng (2022)
- Ngàn hoa dân Người (2019)
- Ngọn lửa xanh
- Quê nhà tôi ơi (2021)
- Thắp lửa nhân ái (2019)
- Thơ tuổi 80 (2020)
- Tiếng vọng cội nguồn: Đền Đô – thơ & ảnh
Trong văn hóa đại chúng
Bên cạnh cuốn tự truyện, cuộc đời thăng trầm của thầy giáo Nguyễn Đức Thìn còn được tái hiện trong bộ phim tài liệu nhựa dài 20 phút do Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Như Vũ đạo diễn mang tên Người thắp lửa. Kịch bản bộ phim từng giành được giải Nhì tại cuộc thi viết kịch bản điện ảnh chào mừng chào mừng 1000 năm Thăng Long – Hà Nội vào năm 2008. Năm 2009, bộ phim chính thức ra mắt và đã giành được giải Cánh diều vàng, đạo diễn xuất sắc nhất cho phim tài liệu nhựa tại Giải Cánh diều 2009, cũng như giải Ba tại Liên hoan phim ASEAN. Cuối năm 2010, Người thắp lửa là 1 trong 4 bộ phim Việt Nam tham gia tranh giải tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương. Đến tháng 6 năm 2013, bộ phim tiếp tục được trình chiếu tại Liên hoan phim tài liệu châu Âu – Việt Nam lần thứ 5 tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, ông đã từng xuất hiện trong bộ phim phóng sự Sứ giả nghìn việc tốt của Đài truyền hình Bắc Ninh – tác phẩm giành được Huy chương bạc cho hạng mục phim video tại Liên hoan phim truyền hình toàn quốc năm 2009.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Đức Thìn** (sinh ngày 1 tháng 9 năm 1940) là một nhà giáo Việt Nam, người khởi xướng phong trào _Nghìn việc tốt_ từ năm 1963. Phải chống chọi với bệnh phong cùi, ông
**Nguyễn Dục** (1807-1877), tự: **Tử Minh**; là danh thần triều Nguyễn và là nhà giáo Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Dục** là người làng Chiên Đàn, tổng Chiên Đàn Trung, huyện Hà Đông, phủ
**Nguyễn Nghĩa Thìn**, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, Nhà giáo Ưu tú là Chủ tịch Hội đồng ngành Sinh học – Đại học Quốc gia Hà Nội Ông là nhà khoa học về Thực
**Trần Nguyên Dục** (Chữ Nho: 陳元昱; ? – 1364), là một tông thất hoàng gia Đại Việt thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Trần Nguyên Dục là hoàng tử, con
**Nguyễn Thị Thanh Tuyền**, thường được biết đến với tên gọi **Nguyễn Phương Hằng** (sinh ngày 26 tháng 1 năm 1971), là một nữ doanh nhân người Việt Nam. Bà là Tổng Giám đốc và
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Tư Giản** (阮思僩, 1823–1890), trước có tên: **Văn Phú**, **Địch Giản**, sau mới đổi lại là **Tư Giản**, tự: **Tuân Thúc**(洵叔), **Hy Bật**, hiệu: **Vân Lộc**(雲麓) và **Thạch Nông**(石農). Ông là một danh sĩ
**Nguyễn Huy Cẩn** hay **Nguyễn Huy Cận** (1729-1790) là chí sĩ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Cuộc đời Nguyễn Huy Cẩn người làng Sủi, tức Phú Thị, xã Phú Thị,
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
**Nguyễn Thiện Thuật** (1844-1926), tên tự là **Mạnh Hiếu**, còn gọi là **Tán Thuật** (do từng giữ chức Tán tương), lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, một trong các cuộc khởi nghĩa của phong
**Nguyễn Văn Hiếu** (1746 - 1835) là tướng chúa Nguyễn và là quan nhà Nguyễn, Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Văn Hiếu** là người Kiến Hòa, tỉnh Định Tường, về sau đổi thuộc tỉnh
**Nguyễn Phúc Ngọc Nga** (chữ Hán: 阮福玉珴; 21 tháng 11 năm 1796 – 1856), phong hiệu **An Thái Công chúa** (安泰公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
**Giáo dục khoa cử thời Mạc** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại Việt từ năm 1527 đến năm 1592 trong vùng nhà Mạc
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3** (theo cách gọi khác ở Việt Nam là **Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3**) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại
**Nguyễn Thị Hoàn**, tên hiệu **Ý Tĩnh Khang hoàng hậu** (chữ Hán: 懿靜康皇后, 1736 - 30 tháng 10 năm 1811), hay **Hiếu Khang hoàng hậu** (孝康皇后), là chính thất phu nhân của Nguyễn Phúc Luân,
**Nguyễn Cung Tông** (chữ Hán: 阮恭宗 23/2/1852 – 6/10/1883), tên thật là **Nguyễn Phúc Ưng Ái**, sau đổi thành **Nguyễn Phúc Ưng Chân** (阮福膺禛), là vị hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Nguyễn.
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nguyễn Thế Anh** (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1949 tại Hà Nội), hay được biết đến nhiều với tên **Ba Đẻn**, là một quân nhân, cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Thời
**Nguyễn Văn Lý** (chữ Hán: 阮文理; 1795-1868), húy **Dưỡng**, thường được gọi là **"Cụ Nghè Đông Tác"**, tự **Tuần Phủ**, hiệu **Chí Đình**, **Chí Am**, **Chí Hiên**, biệt hiệu **Đông Khê**, là một danh sĩ,
Thống chế Điều bát **Nguyễn Văn Tồn** (Chữ Hán: 阮文存, 1763–1820) là một danh tướng và nhà khai hoang đầu thời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công lớn trong
**Nguyễn Phúc Hồng Thiết** (chữ Hán: 阮福洪蔎; 1848 – 1937), tự **Lục Khanh** (陸卿), hiệu **Liên Nghiệp Hiên** (連業軒), Pháp danh **Thanh Thiện** (青善) là một hoàng thân nhà Nguyễn và là một thi sĩ,
nhỏ|phải|Bửu tỷ của vua Gia Long **Bửu tỷ triều Nguyễn** hay **bảo tỷ triều Nguyễn** là loại ấn tín của Hoàng đế, tượng trưng cho Đế quyền của các vị vua triều Nguyễn. Bửu tỷ
**Nguyễn Cao Cường** (sinh ngày 27 tháng 10 năm 1954 tại Hà Nội) là quân nhân, cựu cầu thủ bóng đá Thể Công và đội tuyển Quốc gia Việt Nam. Ông từng 4 lần vô
**Cao Xuân Dục** (chữ Hán: 高春育; tự là **Tử Phát**, hiệu **Long Cương Cổ Hoan Đông Cao**; 1843–1923) là một quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam, từng làm tổng đốc, thượng
**Trịnh Hoài Đức** ( 1765 - 1825), còn có tên là An (安), tự **Chỉ Sơn **, hiệu **Cấn Trai**; là một công thần của triều Nguyễn, là một nhà thơ, nhà văn và là
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn Thiếp** (chữ Hán: 阮浹, 1723 - 1804) tự Khải Xuyên, là danh sĩ cuối đời Hậu Lê và Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô,
**Giáo dục và khoa cử thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống giáo dục và chế độ khoa cử nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. ## Hệ thống
**Nguyễn Đăng Giai** (阮登楷 hay 阮登階, ? - 1854) tự **Toản Phu**; là danh thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông là người làng Phù Chánh, huyện
**Nguyễn Đình Hoàn** (1661-1744), hiệu **Chu Phù** là thủ khoa nho học Việt Nam, một nhà thơ, và là danh thần của nhà Lê trung hưng. ## Tiểu sử thumb|Mộ và Nhà bia Đình nguyên
**Nguyễn Phú Trọng**, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, từ trần vào hồi 13 giờ 38 phút, ngày 19 tháng 7 năm
**Nguyễn Sĩ Giáo** (chữ Hán: 阮仕教; 1638 – ?) là một vị quan triều Lê. Ông là người xã Mi Sơn huyện Thanh Chương (nay thuộc xã Thanh Mai, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An).
**Nguyễn Trung Trực** (chữ Hán: 阮忠直; 1838 – 1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ 19 ở Nam Bộ Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp ###
**Nguyễn Huy Oánh** (chữ Hán: 阮輝, 1713 - 1789), tự: **_Kinh Hoa_**, hiệu:**_Lưu Trai_**; là đại thần và là nhà văn thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Nguyễn Huy
Quân Pháp đánh thành Hà Nội năm 1873 **Nguyễn Văn Lâm** (阮林; 1844 - 1873) còn gọi là **Nguyễn Lâm**, tự _Mặc Hiên_, là con thứ hai của đại thần Nguyễn Tri Phương và là
**Nguyễn Đăng Tuân** (chữ Hán: 阮登洵; 1772 – 1844), tự **Tín Phu** (信夫), hiệu **Thận Trai** (慎齋), là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh năm Nhâm Thìn
**Nguyễn Hiệu** (; 1674 - 1735) là một đại thần nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông nguyên tên là **Phan Công Sứ**, người làng Lan
**Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du** là quần thể những di tích liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Đại thi hào và dòng họ Nguyễn Tiên Điền. Các điểm di tích
**Nguyễn Đình Chiểu** (chữ Hán: 阮廷炤; 1822 - 1888), tục gọi là **cụ đồ Chiểu** (khi dạy học), tự **Mạnh Trạch**, hiệu **Trọng Phủ**, **Hối Trai** (sau khi bị mù), là một nhà thơ lớn
**Nguyễn Quang Bích** (chữ Hán: 阮光碧, 1832 – 1890), còn có tên là **Ngô Quang Bích**, tự **Hàm Huy**, hiệu **Ngư Phong**; là quan nhà Nguyễn, nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa
**Nguyễn Phúc Thái** (chữ Hán: 阮福溙, 1649 - 1691), trước bị gọi nhầm thành **Nguyễn Phúc Trăn**, **Chúa Nghĩa** là Chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam (ở
**Nguyễn Công Nhàn** (chữ Hán: 阮公閒, ?-1867) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người tỉnh Phú Yên Năm 1861, quân Pháp tấn công Định Tường, Nguyễn Công Nhàn bị
**Nguyễn Hữu Thắng** (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1971 hoặc tháng 7 năm 1972) là một cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Thời còn thi đấu ông chơi ở vị trí hậu
**Giáo dục khoa cử thời Nguyễn** là hệ thống đào tạo nhân tài chủ yếu phục vụ trong bộ máy hành chính của hoàng triều nhà Nguyễn từ năm 1802 đến 1919 khi khoa cử
**Nguyễn Phúc Trang Nhàn** (chữ Hán: 阮福莊嫻; 22 tháng 11 năm 1825 – 17 tháng 4 năm 1892), phong hiệu **Triêm Đức Công chúa** (霑德公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn
**Nguyễn Khoa Toàn** (1899-1965) là một quan triều nhà Nguyễn đồng thời là Bộ trưởng Giáo Dục và Thông Tin của quốc gia Việt Nam thời vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều
**Nguyễn Xuân Ôn** (1825 – 1889), hiệu **Ngọc Đường**, **Hiến Đình**, **Lương Giang** nhân dân thường gọi ông là **Nghè Ôn**; là quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở